Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2022

Đặc điểm các công trình công quyền trong thời kỳ Pháp thuộc tại Lào

Là một đất nước theo truyền thống Phật giáo nên lối kiến trúc của Lào cũng mang đậm âm hưởng nhà Phật và được thể hiện mạnh mẽ qua các công trình đền, chùa, nhà ở, tháp…Kể từ sau khi trở thành thuộc địa của Pháp từ năm 1893-1953, kiến trúc Lào mới thực sự có nhiều thay đổi. Pháp muốn đánh dấu sự thống trị của mình lên đất nước Lào nên đã cho xây dựng nhiều công trình mang các yếu tố của kiến trúc Pháp như nhà ở, trường học, bệnh viện,… Kiến trúc công quyền tại Lào trong thời kỳ thuộc địa vẫn tạo ra những dấu ấn về di sản ở hầu hết các thị trấn và TP lớn của Lào như Vientiane, Luang Prabang, Savannakhet,… Bên cạnh đó, người Pháp đã tích hợp phong cách kiến trúc truyền thống Lào với phong cách kiến trúc đậm chất Pháp và chỉnh sửa các yếu tố kiến trúc trên công trình công quyền sao cho phù hợp với điều kiện tự nhiên và khí hậu. Sự kết hợp hài hòa này đã mang đến sự đặc trưng và giá trị cho các công trình công quyền trong thời kỳ Pháp thuộc. Đây cũng là giai đoạn đại diện cho sự tiến hóa quan trọng nhất trong lịch sử phát triển nền kiến trúc tại Lào.

Cung điện Hoàng gia, Luang Pha Băng

Với những phân tích về khái niệm công trình công quyền theo các văn bản lưu hành tại Pháp [1], có thể thấy, kiến trúc công quyền phổ biến tại Lào gồm 2 loại hình chủ đạo: Thứ nhất là công trình công quyền đa chức năng, vừa là nơi làm việc hành chính, vừa là nơi ở (dinh thống đốc); thứ 2 là công trình công quyền đơn năng với chức năng chính là làm việc hành chính và quản lý chính quyền (trụ sở tòa án, ngân hàng, kho bạc,…). Sự ảnh hưởng của phong cách kiến trúc thuộc địa Pháp mang âm hưởng hiện đại đã để lại nhiều công trình có giá trị tại nhiều TP lớn cho đất nước Lào và được bảo tồn cho đến tận ngày nay. Bên cạnh đó, thuộc tính đô thị tại Lào trong thời kỳ này cũng có nhiều thay đổi, người Pháp đã cho xây dựng các khu đô thị chiến lược chủ yếu nằm ở những khu vực ven sông Mê Kông, bởi đây là những vị trí thuận lợi cho giao thông. Các khu đô thị này nằm ở Vientiane, Luang Prabang, Thakkek, Savannakhet, Champasak và có quy mô tương đối nhỏ. Người Pháp xây dựng các khu đô thị này theo nhiều cách khác nhau nhằm phát huy hiệu quả cao nhất của việc chiếm đóng và khai thác thuộc địa như: thiết kế khu đô thị mới hoàn toàn trên một khu đất hoang (Champasack), xây dựng các công trình mới đan xen vào khu đô thị có sẵn (Savannakhet, Luang Prabang), hoặc khôi phục lại khu đô thị cổ (Vientiane)…

Tòa nhà mang kiến trúc thuộc địa tại Luang Pha Băng

Nhưng dù đô thị được tiến hành xây dựng theo hình thức nào, thì chúng vẫn được thiết kế trên những tuyến đường ô bàn cờ như quy hoạch chuẩn của phương Tây và các công trình công quyền lớn kiểu kiến trúc Pháp hoặc kiến trúc thuộc địa được đặt nằm sát ven đường chính, chủ yếu là những công trình mang tính nguyên bản tại chính quốc nhằm phục vụ cho những người Pháp đang thực hiện nhiệm vụ tại Lào.

Cũng như các nước thuộc địa khác của đế quốc, kiến trúc thuộc địa tại Lào là sự tiếp xúc về văn hóa, mang đến những tác động và ảnh hưởng khác nhau theo không gian và thời gian, tạo nên một dòng kiến trúc kết hợp giữa hai yếu tố bản địa và phương Tây. Kiến trúc thuộc địa tại Lào cũng trải qua hai giai đoạn cơ bản: Giai đoạn áp đặt và giai đoạn kết hợp. Trong giai đoạn áp đặt, dưới quyền cai trị của thực dân Pháp, chỉ có một số đô thị nằm ở vị trí chiến lược như đã bàn ở trên và các công trình kiến trúc công quyền theo kiểu Pháp có quy mô nhỏ đến trung bình được xây dựng nhưng chủ yếu là sao chép nguyên mẫu từ chính quốc để phục vụ người Pháp và tiến hành nhiệm vụ chủ chốt tại Lào. Hầu hết các công trình công quyền trong giai đoạn này mang tính thực dụng cao, lấy kỹ thuật xây dựng từ phương Tây và có tinh thần của chủ nghĩa công năng đơn giản, nghệ thuật truyền thống bản địa của Lào vốn không được xem trọng trong giai đoạn này. Sang đến giai đoạn kết hợp, nước Pháp mới bắt đầu tìm hiểu và nghiên cứu về các điều kiện bản địa cũng như khí hậu nhằm đưa ra các giải pháp để thay đổi kiến trúc nguyên mẫu sao cho phù hợp với điều kiện bản địa mới cũng như củng cố lại niềm tin của nhân dân Lào. Hay nói cách khác, để việc khai thác được lâu dài, kiến trúc thuộc địa tại Lào lúc này đóng vai trò thể hiện các chính sách hòa hợp và xem trọng hơn các yếu tố bản địa (hình 8).

Cụ thể, các công trình công quyền của Lào tập trung nhiều ở ba TP lớn như Luang Prabang ở Bắc Lào, Vientiane ở Trung Lào và Savannakhet ở Nam Lào. Không chỉ riêng ở Lào mà cả Việt Nam và Campuchia đều được người Pháp chú ý đến lưu lượng và tốc độ gió hàng năm đưa vào công trình để làm mát và làm khô thoáng các không gian bên trong do Đông Dương nằm trong vùng có độ ẩm khá cao, dễ gây ẩm mốc [7]. Các giải pháp thông gió tự nhiên cơ bản đối với các công trình công quyền tại Đông Dương chủ yếu là làm sao đón được lượng gió lớn nhất, đồng thời giảm thiểu vùng lặng gió. Điều này ảnh hưởng nhiều đến quy hoạch vị trí và hình dáng công trình công quyền…

Luang Prabang nằm ở khu vực có địa hình chủ yếu là đồi núi nên được người Pháp coi trọng các vấn đề về địa hình và cảnh quan của địa phương. Khí hậu ở đây gần giống với khí hậu của vùng trung du miền núi của Việt Nam, cũng gần giống với kiểu khí hậu của miền núi và miền Bắc nước Pháp nên kiến trúc công trình công quyền ở Luang Prabang mang nhiều nét giống với kiểu kiến trúc địa phương của Pháp. Các công trình công quyền tại Luang Prabang đề cao tận dụng địa hình địa thế tự nhiên, người Pháp đặc biệt chú ý đến cách quy hoạch mạng lưới đường giao thông trong sự chênh lệch giữa các đường đồng mức nên các công trình công quyền tại đây không hề làm ảnh hưởng đến cảnh quan của thiên nhiên. Luang Prabang có diện tích đất đai khá rộng rãi nên việc xây dựng các công trình công quyền theo các quy định được đặt ra trong đạo luật Cornudet cũng không gặp nhiều khó khăn. Các công trình công quyền có bố cục đều đảm bảo được khoảng cách quy hoạch giữa các ngôi nhà bản địa, giữa cây xanh, giữa địa hình của những ngọn núi nên cảnh quan nơi đây thực sự hài hòa và không làm xáo trộn cảnh quan tự nhiên.

Vientiane và Savannakhet tuy nằm ở vị trí Trung Lào và Nam Lào nhưng lại có địa hình tương đối giống nhau và giống với địa hình của miền Trung Việt Nam – Với diện tích đồng bằng chiếm đa số và ven chân núi hoặc bao quanh bởi các đỉnh núi cao, khí hậu của ba vùng cũng tương đối giống nhau. Nhưng chỉ khác một điều là miền Trung của Việt Nam nằm sát bờ biển nên chịu ảnh hưởng của những trận mưa bão mạnh mẽ và kéo dài, và khi bão di chuyển sang đến Trung Lào hay Nam Lào thì bão đã giảm dần hoặc gần như đã chuyển thành áp thấp nhiệt đới. Chính vì vậy khi người Pháp xây dựng công trình công quyền tại miền Trung Việt Nam thì chú trọng các giải pháp chống mưa chống bão, còn ở Vientiane và Savannakhet thì có các giải pháp tương tự để chống mưa to, gió lớn, kết cấu nhà rất chắc chắn. Công trình có độ dày càng lớn thì càng có sức cản được gió nên mặt bằng công trình rộng về bề ngang, có kích thước lớn, hình khối công trình có dạng hình chữ nhật dài. Mặt đứng hướng Đông và hướng Tây chịu nhiều bức xạ nhiệt của mặt trời, nhiệt độ không khí bên ngoài cao nên dạng hình khối này sẽ dễ dàng thực hiện các biện pháp thông gió tự nhiên.

Nhà sàn truyền thống (Champasak, Lào)
Nhà sàn truyền thống (Luang Prabang, Lào)

Về phong cách thiết kế, người Pháp bên cạnh kết hợp kiến trúc phương Tây và yếu tố kiến trúc bản địa, họ còn sử dụng lại các phong cách kiến trúc mà họ đã áp dụng tại Việt Nam. Ngoài ra, họ còn sử dụng các kỹ thuật xây dựng mới của Châu Âu và Trung Quốc. Đồng thời, họ lấy ý tưởng từ những ngôi đền truyền thống với các cấu trúc bằng gỗ lâu đời của Lào-vốn thích hợp với khí hậu ấm áp và ẩm ướt của Lào… Tất cả những điều trên sản sinh ra kiểu kiến trúc thuộc địa độc đáo chỉ được tìm thấy tại Lào [11]. Trong đó, những công trình có chức năng công quyền nằm giữa khu trung tâm và hài hòa giữa thiên nhiên, mang lại đặc trưng riêng cho các khu đô thị được quy hoạch bởi người Pháp.

Dựa vào các cấu kiện kiến trúc, kỹ thuật xây dựng, vật liệu xây dựng màu sắc và chi tiết của hoa văn, có thể phân chia các công trình công quyền tại Lào theo các phong cách thuộc địa chính theo từng giai đoạn như sau:

Phong cách kiểu trại lính: Hay còn gọi là phong cách kiến trúc thực dân tiền kỳ. Giai đoạn đầu của thời kỳ thuộc địa, người Pháp phải sống nhờ trong những ngôi nhà sàn của người dân bản địa và xây dựng một số ngôi nhà tạm để sinh sống trong một thời gian ngắn, sau đó người Pháp cần phải thiết lập nhanh cơ sở trú ngụ cho binh lính Pháp đóng quân tại Lào nên những công trình theo kiểu trại lính xuất hiện. Chính vì vậy những công trình kiểu này hết sức đơn giản, ít chú trọng về mặt thẩm mỹ, những chi tiết trang trí đầu cột hay diềm mái cầu kỳ vốn thấy ở kiến trúc cổ điển phương Tây gần như đã được tối giản mà chỉ khai thác một ít từ kiến trúc Phục Hưng như hàng con tiện hoặc đắp vữa tạp hình hoa lá. Hình thức các công trình công quyền kiểu trại lính hết sức đơn giản với mặt bằng hình chữ nhật, hàng hiên rộng chạy xung quanh nhà, mái dốc lợp ngói, tường xây bằng gạch chịu lực chống mái, cửa dạng vòm cuốn La Mã có viên đá khóa dùng để trang trí mặt tiền nhà hoặc mái pediment làm lối cửa chính, chiều cao công trình thường chỉ có 1 tầng.

Phong cách Tân Cổ Điển: Các công trình công quyền sẽ được sao chép nguyên bản từ các công trình ở chính quốc nhầm phô trương thế lực – mục đích chính của thực dân Pháp. Công trình thường có khung kết cấu của kiến trúc Pháp, có tường, cột và móng bằng gạch chịu lực, khu mái bằng gỗ và lợp ngói. Công trình vẫn sử dụng bố cục đối xứng nghiêm ngặt, cấu trúc hình học và tỷ lệ của kiến trúc cổ điển vẫn được tuân thủ. Tuy những công trình này có quy mô không lớn như những công trình khác được xây cùng thời ở Đông Dương nhưng chúng gây ấn tượng mạnh mẽ trong lịch sử và mô phỏng rõ ràng được hình thức kiến trúc Tân cổ điển trong giai đoạn này. Hình thức trang trí của những công trình công quyền mang phong cách Tân cổ điển này có thể sao chép nguyên bản từ chính quốc do tay nghề của đội ngũ nghệ nhân bản địa đã được nâng cao hoặc được đội ngũ nghệ nhân du nhập từ Việt Nam vốn đã dày dặn kinh nghiệm (hình 13)

Phong cách Đông Dương: Đạo luật Cornulet ra đời sau thế chiến thứ I nhằm quy hoạch lại các TP sau chiến tranh và định hình phong cách kiến trúc chung cho từng khu vực Đông Dương. Từ năm 1920, KTS Ernest Hébrard là người đã đề xướng ra phong cách kiến trúc Đông Dương-kiểu kiến trúc pha trộn giữa văn hóa kiến trúc phương Tây và phương Đông [6]. Phong cách này đa dạng với nhiều kiểu quy mô khác nhau, có sự pha trộn giữa kiến trúc Pháp với văn hóa kiến trúc Lào và đôi khi là pha trộn cả với văn hóa kiến trúc của cộng đồng Việt-Hoa [5] [2]. Những công trình dạng này thường chịu ảnh hưởng của ba yếu tố chủ chốt: Văn hóa bản địa của người Lào, tôn giáo tín ngưỡng, và văn hóa phương Tây. Hoa văn trang trí chi tiết có sự pha trộn giữa phương Tây và các yếu tố bản địa nhưng cấu trúc công trình vẫn sử dụng hệ kết cấu tường, cột, móng chịu lực của Pháp.

Hầu hết các công trình công quyền của Pháp tại Lào vẫn giữ đúng tinh thần chung của các nguyên tắc kiến trúc cổ điển phương Tây như cửa sổ bằng gỗ, mái ngói, tường dày đi kèm ban công, mái hiên…

Trong quá trình xây dựng các tòa nhà công quyền, người Pháp đã đưa vào các kỹ thuật và vật liệu xây dựng của Châu Âu. Tuy nhiên, vào thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II, vận chuyển đá sang các nước thuộc địa rất khó khăn và khai thác và sử dụng đá tại thuộc địa cũng rất mất thời gian, chính vì vậy để đáp ứng tiến độ và tính thực dụng cho các công trình được xây dựng tại Lào cũng như các nước thuộc địa khác, người Pháp đã chọn vật liệu bằng gạch sẵn có ở địa phương [3]. Việc sử dụng gạch và đá trước đây ở châu Âu vốn dĩ chỉ được dùng cho nhà thờ và các công trình lớn thì các công trình công quyền tại Lào vào thời điểm đó đã được sử dụng gạch một cách rộng rãi. Do đó, có sự biến đổi từ những ngôi nhà truyền thống của Lào từ một cấu trúc được xây dựng bằng gỗ và tre sang những ngôi nhà làm bằng gỗ – vách đất, rồi đến gạch – gỗ hay gạch – vách đất, và cuối cùng là những công trình được làm từ gạch và thạch cao. Ngoài ra, các KTS người Pháp cũng sửa đổi các các thiết kế để phù hợp với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thông qua việc bổ sung ban công, mái hiên và hành lang bên trong.

Trong các công trình truyền thống của Lào, kết cấu công trình chủ yếu là cấu trúc cột và dầm, tận dụng tối đa nguồn vật liệu địa phương như cột và dầm bằng gỗ, mái gỗ, tường tre, ngói bằng đất sét nung, trong đó phương pháp xây dựng chủ yếu vẫn theo kiểu truyền thống. Đến thời kỳ thuộc địa, các công trình công quyền có phương pháp thi công hiện đại hơn, đồng thời sử dụng hệ thống tường gạch, vật liệu xây dựng hiện đại hơn, pha trộn giữa kết cấu tường gạch, mái ngói đất sét và tường gạch thạch cao. Có sự chuyển đổi trong cấu trúc và vật liệu của kiến trúc truyền thống Lào sang kiến trúc thuộc địa này là do ảnh hưởng từ không gian linh hoạt trong không gian nhà truyền thống Lào, công trình có thể dễ dàng thay đổi không gian chức năng sử dụng để phù hợp với nhu cầu sử dụng của người dân, nên vật liệu gỗ với kiểu xây dựng truyền thống được chuyển đổi sang kiểu kết cấu cố định và bền hơn bằng các vật liệu như gạch, xi măng nhằm gia cố cho cấu trúc công trình (bảng 2).

Có thể lấy ví dụ bằng việc phân tích một số các giải pháp của hai công trình công quyền tiêu biểu tại Lào, để thấy rõ được các yếu tố tôn trọng bản địa đã được các KTS Pháp thực hiện rất tốt.

Tòa nhà Residence Superieure

Công trình Sở chỉ huy quân sự – Luang Prabang – Lào

Được xây dựng vào năm 1925 và hoàn thành vào năm 1926, trước đây là văn phòng của sở chỉ huy quân sự, hiện nay công trình đã được chuyển đổi chức năng thành Trung tâm hành chính Luang Prabang.

Công trình được xây dựng trên một khu đất tương đối bằng phẳng do KTS người Pháp – Veysseire thiết kế. Mặt đứng của công trình đơn giản theo phong cách Thuộc địa tiền kỳ với tổng thể đối xứng theo đúng nguyên tắc của kiến trúc Cổ điển [8]. Công trình này có 2 tầng với khối tích đơn giản nhưng dày và chắc chắn nằm theo hướng Bắc Nam để tránh tác động của gió bão, tác giả đã lưu ý đến hướng công trình sao cho phù hợp với khí hậu của Luang Prabang. Lối vào chính là các bậc thang lớn nằm ngay chính giữa công trình cùng với 2 ram dốc ở 2 bên và 2 lối tam cấp vào phụ nằm ở hai góc đầu hồi công trình. Các bước gian cách đều khoảng 4m, các phòng làm việc ở 2 tầng tương đối giống nhau và bám sát vào trục hành lang bên ở phía trước mặt tiền công trình.

Hệ thống cửa của công trình rất đáng chú ý. Tầng dưới không có hàng hiên chống nắng như kiểu thường thấy của kiến trúc thuộc địa mà là 1 loạt các cửa sổ cao 2,85m, nằm ngay tường ngoài. Tuy không có hàng hiên để tránh mưa và nắng nhưng các cửa sổ to lớn này cũng đóng vai trò giúp cho tầng dưới không bị chiếu nắng và vẫn thông thoáng nhờ vào hệ thống chớp cửa bên ngoài và lớp kính bên trong. Tầng trên là dãy hành lang bên cách một khoảng 1,75m rồi mới đến dãy phòng có cửa đi có chớp. Phía trên là hệ thống mái ngói 2 lớp chống nóng chống lạnh, vươn ra xa để tránh mưa hắt, phía dưới mái được đỡ bằng consol gỗ. Mái nhà tránh nắng thay cho ô văng chạy dọc suốt hành lang tầng trên. Buổi sáng, ánh nắng mặt trời chiếu trực tiếp từ hướng Đông nhưng mái nhà kết hợp với hành lang tầng trên này sẽ giúp tránh ánh nắng xuyên qua. Trên tầng hầm mái là một không gian rất thóang đãng có đủ ánh sáng và thoáng mát nhờ vào các cửa sổ mái hình tam giác rộng đáy 2 mét, cao 1,6m và một cửa sổ mái lớn nằm ngay chính giữa, tạo ra luồng gió đối lưu giữa trong và ngoài công trình, tạo cảm giác thóang đãng cho tầng hầm mái như các tầng ở dưới công trình. Độ dốc của mái là 320.

Nền móng của công trình là nền móng nông chịu lực kết hợp cuốn vòm gạch, để tránh thẩm thấu nước từ nền đất lên đồng thời truyền tải trọng từ tường xuống các trụ và cột chịu tải trọng chính. Nên tuy công trình không có tầng hầm nhưng tầng 1 vẫn chống ẩm tốt bởi cách xử lý trên. Bên cạnh còn có hệ thống tường chắn để tránh sạt lở đất. Tường chịu lực bằng gạch nung đảm bảo thích ứng với khí hậu hai mùa nóng lạnh ở Luang Prabang. Bên trong dầm và xà gồ làm bằng gỗ ngâm nước để tránh mối mọt.

Công trình cũng được bố trí lò sưởi tương tự như Nha Tài chính Đông Dương ở Hà Nội để chống lạnh vào mùa đông ở Luang Prabang và đồng thời giúp không khí trong công trình được lưu thông tốt.

Người Pháp đã khéo léo khi tạo ra một tầm nhìn thoáng đãng khi nhìn vào mặt tiền công trình. Cây cối được lựa chọn kỹ để phù hợp với không gian kiến trúc. Đặc biệt có hàng cây thông để tôn vẻ hòa hợp giữa công trình và cảnh quan núi rừng xung quanh Luang Prabang.

Sở chỉ huy quân sự – Luang Prabang – Lào

Công trình Dinh thống sứ Pháp- Luang Prabang- Lào:

Công trình được xây dựng vào năm 1923, trước đây là Dinh thống sứ Pháp nhưng hiện nay đã chuyển đổi chức năng thành Phòng quản lý giáo dục và đào tạo Luang Prabang.

Công trình được xây dựng ở khu đất cao, quay mặt về hướng Đông Nam, vừa có thể đón ánh sáng mặt trời, vừa hứng được lượng gió mát từ hướng Nam và tránh được gió nóng từ hướng Tây. Mặt bằng công trình với tất cả phòng ốc đều được thiết kế các cửa sổ đối diện nhau nhằm lấy gió mát xuyên phòng, tạo ra sự thông thoáng tuyệt đối. Hành lang bao quanh công trình rộng 2m để giúp thông thoáng, làm mát và tránh ánh nắng hắt trực tiếp từ bên ngoài, theo đúng kiểu thường thấy của kiến trúc thuộc địa Pháp. Kết cấu công trình vẫn được giữ nguyên như cũ. Dáng mái của công trình là kiểu dáng hai mái dốc cong lớn 35-60 độ nằm chồng lên nhau, được mô phỏng theo kiểu mái truyền thống của kiến trúc tôn giáo ở Lào. Hai đầu hồi mái có cửa sổ thông gió giúp thông thóang. Do kết cấu của mái có độ dốc cong và chồng mái nên giữa 2 lớp mái sẽ có các lỗ thông khí vô cùng thoáng mát và chiếu sáng tốt, đồng thời độ dốc của mái cao sẽ giúp cho công trình thoát nước mưa tốt không bị thấm nước mưa. Điều này đã được người Pháp vận dụng kinh nghiệm cũ xưa của kiến trúc truyền thống Lào trong việc xây dựng các công trình tôn giáo, vốn rất chú ý đến việc thông thóang đặc biệt là khói hương và thoát nước mái.

Công trình chủ yếu được làm bằng vật liệu rất dễ kiếm tại địa phương. Chẳng hạn như khung mái gồm trụ đội, xà dọc, xà ngang, vì kèo,… đều được làm bằng gỗ rất chắc chắn, mái lợp ngói và tường dày thì làm bằng gạch nung. Công trình được sơn màu vàng, cửa sổ xanh da trời, mái lợp ngói đỏ, hòa mình vào với cảnh sắc của thiên nhiên xung quanh. Do lượng mưa ở Luang Prabang khá cao nên người Pháp không dùng sê nô để thoát nước mưa mà chọn giải pháp thoát nước mái tự do bằng cách làm cho mái đưa ra một khoảng 0.5m. Chính vì thoát nước mưa tự do nên bậc thềm được nâng cao để tránh ẩm mốc do nước mưa và cũng giúp giảm hấp nhiệt từ mặt đất. Dãy cửa sổ bằng gỗ rộng 1m, cao1,5m thụt sâu vào bên trong tường 0,2m, có bệ cửa sổ được đắp nổi và vạt nghiêng bề mặt nhằm tránh tạt nước mưa vào trong, cửa sổ được thiết kế theo kiểu lá sách giúp che nắng mưa nhưng cũng đồng thời giúp thoáng khí rất hiệu quả. Dãy lan can gỗ dọc hành lang được lấy ý tưởng từ lan can của nhà sàn truyền thống Lào, cũng được làm từ gỗ ngâm nước để chống mối mọt. Được biết, cũng giống như kết cấu của mái, dãy lan can gỗ này vẫn còn chắc chắn và hầu như ít có dấu hiệu bị ăn mòn do thời tiết hay mối mọt.

Dinh thống sứ Pháp- Luang Prabang- Lào

Kết luận

Lào là một trong những nước có nền kiến trúc mang đậm dấu ấn thuộc địa của Pháp. Những yếu tố kiến trúc phương Tây đã in sâu trong tâm trí của người Pháp, đã được họ biến hóa, kết hợp một cách khéo léo trong những công trình truyền thống của Lào, để từ đó cho ra đời những công trình tiêu biểu là những công trình kiến trúc công quyền.

Giải pháp kỹ thuật trong các công trình công quyền đã được người Pháp đưa ra một cách thích hợp để thích nghi với tính chất phức tạp của nền đất tại Lào. Các biện pháp chống ẩm, chống lạnh, chống mưa tạt bằng các giải pháp dùng ô văng, ban công, mái hắt, hoa gió… tuy đơn giản nhưng mang lại hiệu quả cao. Kỹ thuật xử lý nước thải bằng mái dốc, sê nô giúp cho công trình luôn sạch sẽ, khô ráo mà không gây ngập úng cho nền móng. Đặc biệt là bộ mái với chức năng che nắng và làm mát không khí nóng cho tầng áp mái bằng giải pháp xây cao và có thêm cửa sổ mái cũng là đặc điểm khác biệt giữa kiến trúc thuộc địa ở Lào và chính quốc Pháp. Ngoài ra còn các biện pháp xử lý vi khí hậu bằng cây xanh, mặt nước, tạo khoảng không gian đệm giữa công trình và môi trường xung quanh cũng làm tăng khả năng thích ứng với khí hậu bản địa.

Nhiều công trình công quyền đã hơn trăm tuổi nhưng vẫn không có biểu hiện của sự lún hay nứt, có khả năng chống chọi tốt với điều kiện khí hậu ở các vùng miền khác nhau của Lào. Điều đó chứng tỏ, họ đã tính toán kỹ lưỡng và kết hợp hết sức linh động trong kỹ thuật xây dựng truyền thống bản địa và và kỹ thuật xây dựng mới từ chính quốc. Như trong nghiên cứu “A genealogy of tropical architecture” (tạm dịch: Phả hệ của kiến trúc nhiệt đới) của tác giả Jiat- Hwee Chang có nói: “Kiến trúc cổ điển phương Tây đã được người Pháp mang đến Đông Dương, những công trình do họ thiết kế và xây dựng đã được nghiên cứu với những tiêu chuẩn khắc khe và không ngạc nhiên khi chúng có thể trường tồn và thích nghi tốt tại các nước nhiệt đới trái ngược hoàn toàn với khí hậu Châu Âu, hay nói cách khác chính họ đã tạo ra phong cách kiến trúc thuộc địa mà chúng ta vẫn đang quan tâm đến tận ngày nay” [12].

ThS.KTS Ôn Ngọc Yến Nhi
TS.KTS Trương Thanh Hải
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 07-2022)


Tài liệu tham khảo
A. Tài liệu tiếng Việt
[1] Phan Thế Duy, Sự thay đổi hình thái kiến trúc trong các công trình công sở tại TP Hồ Chí Minh giai đoạn thuộc Pháp đến nay, luận văn, đại học kiến trúc TP Hồ Chí Minh, 2012.
[2] Khamphouphet Vanivon, “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản kiến trúc khu phố Pháp tại TP Savannakhet Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”
[3] Trần Văn Khải, Lịch sử kiến trúc phương Tây, trường đại học kiến trúc TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
[4] Sengkham Phinith, Kiến trúc Lào, Tạp chí Kiến trúc, Số 140.
[5] Lê Minh Sơn, Kiến trúc Đông Dương, Nhà xuất bản Xây Dựng, 2010.
[6] Lê Thanh Sơn (1999), Kiến trúc và hiện tượng cộng sinh văn hóa, TP.Hồ Chí Minh.
[7] Nguyễn Đình Toàn, Những nhân tố tự nhiên và truyền thống văn hóa bản địa trong kiến trúc thời Pháp thuộc ở Việt Nam, Đại học kiến trúc Hà Nội, Hà Nội, 1998.
B. Tài liệu tiếng Anh
[8] Christof Thoenes and Bernd Evers (2006), Architectural Theory: From the Renaissance to the Present, Taschen Publishers.
[9] Marc Askew, William S. Logan and Colin Long, Vientiane: transformations of a Lao Landscape, Routledge Public, London & New York, 2007.
[10] Thanouphet Onmavong, Western architectural influences in Laos, luận văn, Đại học Chulalongkorn University, 2016.
[11] Xayaphone Vongvilay, “The Influence of French Colonial Rule on Lao Architecture with a focus on residential building”, Journal of Asian Architecture and building engineering, 2015.
[12] “A Genealogy of Tropical Architecture: Colonial networks, nature and technoscience”, Routledge London & New York, 2015.

The post Đặc điểm các công trình công quyền trong thời kỳ Pháp thuộc tại Lào appeared first on Tạp chí Kiến trúc - Hội Kiến trúc sư Việt Nam.



from Tạp chí Kiến trúc – Hội Kiến trúc sư Việt Nam https://ift.tt/MqWZv7A
Blog phát triển bởi https://tuvankientrucnha.blogspot.com/
Tìm kiếm đơn vị chuyên xây dựng công trình nhà ở Hà Nội https://thoxay.vn//

Nghiên cứu chất lượng không gian mở tuyến đường Ông Ích Khiêm – Đà Nẵng

Việt Nam là một quốc gia với bề dày phát triển không gian công cộng khá khiêm tốn[1]. Điều này dẫn đến nhận thức sử dụng của người dân trong ranh giới giữa công cộng và tư nhân là khá nhập nhằng. Một mặt, do sự khan hiếm đất mở đô thị dành cho các mục đích công cộng. Mặt khác, do hình thức đô thị và tiếp cận quy hoạch ở Việt Nam cũng khá riêng, đô thị lấy đường giao thông làm yếu tố chính để định hình. Cũng vì lẽ đó mà không gian mở công cộng quan trọng nhất ở Việt Nam được xem là không gian đường phố. Thật vậy, Lisa Drummond đã xác nhận điều này trong các nghiên cứu về văn hóa và đô thị Việt Nam và cũng cho rằng, cũng nhờ điều này, các đô thị Việt Nam vẫn trường tồn qua thời gian dẫu cho các nước Tây Phương phải trải qua sự chết đi của các đô thị [1]. Nhưng sự thật cho thấy, các đô thị ở Việt Nam, đang vật lộn với sự đông đúc trên đường phố, tạo ra các xung đột xung quanh việc sử dụng không gian này. Nghiên cứu của Kaid Benfield về đường phố đã chỉ ra rằng đường phố cũng là một không gian công cộng, nó không chỉ là giao thông mà còn mang đến định nghĩa về dân cư và các mối quan hệ xã hội và thương mại [2]. Theo giáo sư Alan Jacobs, – tác giả cuốn sách Great Street “Nếu chúng ta có thể quy hoạch và thiết kế các đường phố sao cho chúng thật tuyệt vời, là những nơi chốn đầy hứa hẹn của kiến trúc và cộng đồng, là không gian hấp dẫn mọi người… thì chúng ta đã thiết kế thành công 1/3 không gian đô thị và có tác động to lớn đến toàn bộ phần còn lại”[3].

Đã có nhiều các nghiên cứu về thiết kế đô thị chỉ ra việc làm thế nào để thiết kế không gian đường phố tối ưu hơn góp phần quan trọng trong việc mang lại giá trị cho đô thị cũng như thõa mãn tính tiện nghi cho người sử dụng. Do đó, việc đánh giá một không gian thế nào là chất lượng là một việc làm cần thiết trước tiên và là tiền đề để giải quyết các vấn đề tiếp theo trong chuỗi quy trình cải tạo và nâng cấp chất lượng cuộc sống.

Nghiên cứu nhằm tìm hiểu nhu cầu và sự đánh giá của người sử dụng trong không gian mở công cộng đường phố ở bối cảnh xã hội Việt Nam, giúp cho các nhà quy hoạch, thiết kế, cũng như nhà làm chính sách trong việc xây dựng, cải tạo không gian công cộng ở đô thị có hiệu quả hơn. Lấy tuyến phố cũ Ông Ích Khiêm, Đà Nẵng làm đối tượng xem xét, nghiên cứu này tập trung vào phân tích nhu cầu sử dụng của con người và đánh giá chất lượng không gian.

Cơ sở lý luận

1. Khuôn khổ lý thuyết

Nghiên cứu này áp dụng cơ sở lý thuyết hành vi – môi trường như một cơ sở lý luận để đánh giá chất lượng cũng như tìm hiểu hiện trạng sử dụng của môi trường xung quanh trong sự tương tác với con người. Hơn nữa, lý thuyết này bao quát toàn thể các biến số và lý giải mối quan hệ giữa con người và môi trường xung quanh, là một lĩnh vực đa ngành nhấn mạnh sự tham gia của người sử dụng và lấy con người làm trọng tâm [4].

2. Phác thảo điều tra

Đầu tiên sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu bằng phiếu khảo sát và quan sát để khám phá nhu cầu, mối quan tâm của họ trong không gian này. Tiếp theo là lập bản đồ hoạt động để tìm hiểu về các loại hình hoạt động cũng như hành vi của người sử dụng.

(1)12 video được ghi lại vào 3 thời điểm khác nhau (sáng, trưa, chiều tối) trong 4 ngày (2 ngày trong tuần và 2 ngày cuối tuần) với mục đích tìm hiểu và đo đếm các hoạt động diễn ra trên toàn tuyến.

(2)179 phiếu khảo sát đã được thực hiện để đo đếm sự thỏa mãn của người sử dụng và thái độ của họ đến những yếu tố vật lý và phi vật lý trong không gian đường phố được tổng hợp trong trong nghiên cứu do tác giả và cộng sự thực hiện năm 2018, 2019 [5, 6] (Hình 1). Bảng 1 mô tả các thông tin nhân khẩu học cơ bản từ những người tham gia trong khảo sát. Phiếu khảo sát được xây dựng với 55 câu hỏi dựa trên dữ liệu định tính từ việc quan sát các hoạt động ở phần trên; nhằm mục đích khảo sát sự đánh giá của người dùng với không gian tuyến đường. Các đánh giá của người sử dụng được xem xét ở 4 khía cạnh khác nhau bao gồm: Mức độ hài lòng khi sử dụng không gian đường phố, mức độ hài lòng với môi trường vật lý (như thùng rác, trạm xe buýt, cây cối, bảng hiệu, chỗ chỗ xe, ghế ngồi…); sức thu hút bởi yếu tố xã hội hấp dẫn của tuyến đường; Đến và sử dụng không gian đường phố như là thói quen cá nhân. Đánh giá được chia theo 5 cấp độ: 1 rất không đồng ý (rất không hài lòng) đến 5 rất đồng ý (rất hài lòng).

Hình 1: Các biến số tác động đến nhận thức của con người trên đường phố nguồn Do (2018,2019)[5].
Bảng 1: Khái quát về người phản hồi phỏng vấn

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

1. Loại hình hoạt động trên tuyến đường

Các hoạt động diễn ra trên tuyến đường được quan sát và ghi lại bằng các video. Sau đó là quá trình đo đếm, định vị một cách tương đối chính xác các hoạt động và hành vi trên bản đồ, từ đó mã hóa thành các dữ liệu định lượng để phân tích đánh giá.

Kết quả cho thấy có tổng cộng 26 loại hoạt động của con người được ghi lại lên trên toàn tuyến (Bảng 2).

Bảng 2: Thống kê các hoạt động trên tuyến đường

Với đa dạng các loại hoạt động diễn ra trên không gian tuyến đường, không chỉ là các hoạt động liên quan đến giao thông, mà còn các hoạt động về kinh doanh – dịch vụ, cũng như các hoạt động tương tác xã hội , có thể thấy rằng đây là một không gian khá sôi động và tác động đến nhiều đối tượng sử dụng.

Dữ liệu thống kê cho thấy các hoạt động liên quan đến Di chuyển kèm phương tiện giao thông (hoạt động 2), Đi bộ (hoạt động 4), Chờ đợi người khác (hoạt động 10) và Quan sát (hoạt động 21) là những hoạt động phổ biến nhất trong cả các ngày cuối tuần và trong tuần. Trong khi đó các hoạt động: Bán hàng cố định (hoạt động 6), Chờ xe buýt (hoạt động 11), Bảo dưỡng công cộng (hoạt động16), Chơi (hoạt động 8) và Nghỉ ngơi (hoạt động 22) là các hoạt ít diễn ra thường xuyên. Các hoạt động còn lại là các hoạt động diễn ra thường xuyên và khá đều đặn giữa các khung giờ của các ngày trong tuần cũng như cuối tuần; và các hoạt động này hầu như đều có liên quan đến các dịch vụ kinh doanh trên tuyến đường.

Đáng chú ý, có thể thấy rằng, ngoài các hoạt động liên quan đến di chuyển, hoạt động Quan sát là hoạt động rất phổ biến và thường xuyên trên toàn tuyến, điều đó cho thấy hành vi này đã trở thành thói quen của khá nhiều cư dân đô thị. Bên cạnh đó, việc Chờ xe buýt (hoạt động 11) lại là hoạt động diễn ra với tần suất thấp nhất trên toàn tuyến, cả ngày trong tuần và cuối tuần (có 2 ngày giá trị này bằng 0 trên toàn tuyến) trong khi hoạt động Chờ đợi người khác (hoạt động 10) lại rất cao.

Kết quả việc quan sát hoạt động chỉ ra rằng, chức năng chính của không gian tuyến đường này hầu hết tập trung phục vụ các vấn đề liên quan đến sự di chuyển, kinh doanh – dịch vụ. Ngoài ra, tuyến đường này còn đóng vai trò là nơi giải trí của người dân thông qua các hoạt động ngồi ngắm nhìn dòng người qua lại và các hoạt động diễn ra trên đường. Kết quả này còn cho thấy một điều khá thú vị rằng, mặc dù các phương tiện công cộng hoạt động ở các tuyến đường đông đúc nhưng số người sử dụng dịch vụ này khá hạn chế. Do đó cần một chiến lược khác tiếp cận nhằm thúc đẩy sự phát triển hệ thống giao thông công cộng trong đô thị một cách hiệu quả hơn.

2. Phân tích người sử dụng trên tuyến đường và sự đánh giá

Kết quả khảo sát trong bảng 3 cho thấy rằng, nhóm người tham gia sử dụng tuyến đường này ở độ tuổi từ 26-55 nằm trong nhóm thu nhập thấp hơn nhóm người dưới 26 tuổi. Trong khi tìm hiểu về số người sinh sống trong các khu dân cư tiếp cận với tuyến đường này cho thấy rằng, 79.2% nằm trong nhóm có thu nhập thấp. Số người sử dụng tuyến đường sở hữu được nhà chiếm 45.8%. Người có thu nhập cao chỉ chiếm 13.4% trong tổng số người tham gia vào các hoạt động trên tuyến đường này. Và con số khảo sát còn cho thấy rằng, số người có lịch sử sinh sống lâu dài trên tuyến đường này chiếm 59.2%.

Bảng 3: Khái quát về chỉ số nhân khẩu học trong khảo sát

Nhìn chung, kết quả phân tích cho thấy quyết định tham gia hoạt động của người sử dụng trên tuyến đường này đều có liên quan đến ba chiều thước gồm các thiết lập vật lý, cá nhân, và xã hội.

Những nhóm người sử dụng khác nhau bị tác động bởi các yếu tố không giống nhau trong không gian đường phố. Cụ thể, những yếu tố liên quan đến sự an toàn, dễ điều hướng (là khả năng dễ dàng tìm kiếm một vị trí hay phương hướng họ muốn) tác động đến tiềm năng sử dụng đường phố của người trong nhóm có thu nhập cao. Trong khi đó, những người trong nhóm thu nhập thấp hơn đánh giá một cách tích cực từ các yếu tố như khả năng có thể đi bộ được, điều hướng, tiện ích công cộng, tính kết nối giữa hai bên đường và giữa các khu phố, sự gần gũi thiên nhiên, tính dễ dàng tiếp cận, các hoạt động tập thể và tương tác xã hội (như chơi cờ, tán gẫu). Ngược lại, các yếu tố như sự lấn chiếm vỉa hè, tính thông suốt tầm nhìn, bóng nắng, sự sạch sẽ, bán hàng rong, tính đa chức năng và tính an toàn được đánh giá là tiêu cực trong nhóm người có thu nhập thấp hơn.

Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, sự đánh giá của người sử dụng không chỉ đơn giản bị tác động bởi các thiết lập vật lý mà còn từ các yếu tố khác. Hơn nữa, nhận thức sử dụng cũng khác nhau giữa các nhóm người khác nhau mặc dù có cùng điều kiện môi trường. Ở không gian đường phố đang nghiên cứu, mặc dù chất lượng các thiết lập không tốt nhưng vẫn chứa đựng những yếu tố thu hút người sử dụng điều mà làm nên sự đông đúc và nhộn nhịp. Thật vậy, những người có lịch sử cư trú lâu dài và gắn bó cuộc đời họ bằng những nghề kiếm sống trên những con đường cũ, họ quen thuộc với cuộc sống đơn giản. Đối với họ, một không gian sống tốt nằm ở các yếu tố phi vật lý điều cung cấp cho họ một sự kết nối chặt chẽ với xã hội xung quanh họ. Mặc dù thu nhập không cao, nhưng họ vẫn cảm thấy thoả mãn với cuộc sống của chính họ vì ở đó, họ tìm thấy sự gần gũi, quen thuộc

Nghiên cứu này cũng gợi lên suy nghĩ về các vấn đề liên quan đến sự công bằng trong sự tương tác với môi trường xung quanh. Thật vậy, có nhiều không gian đã được cải tạo hoặc thiết kế bằng nhiều cách khác nhau đã có những tác động khác nhau đến những nhóm người sử dụng. Tuy nhiên, nhận thức sử dụng một không gian công cộng là bị ảnh hưởng bởi một tổ hợp của các chiều thước vật lý và phi vật lý xuyên suốt qua những nhóm dân số, từ đó nhận định các nhu cầu khác nhau của cộng đồng từ đó cung cấp những dịch vụ công cộng hữu ích hơn.

Kết luận

Nghiên cứu này cho thấy tầm quan trọng của việc chuyển đổi mối quan tâm của các nhà thiết kế và chính quyền về những khía cạnh thiết lập vật lý đến các khía cạnh phi vật lý trong sự phát triển các không gian sống cho con người. Thật vậy, cải thiện môi trường vật lý là không đủ để kích thích con người đến một nơi nào đó bằng bối cảnh văn hóa và xã hội của chúng.
Những mối quan tâm cần thiết cho tuyến đường này bao gồm:

Xử lý các vật cản trên vỉa hè bằng các giải pháp thiết kế và quản lý nhằm cung cấp lối đi bộ thông suốt có tính kết nối cao, đồng thời gia cường tính thẩm thấu trong tầm nhìn trên vỉa hè;

Cung cấp không gian cho các hoạt động thương mại – kinh doanh như bán hàng rong nhằm kích thích các loại hoạt động và tính sống động trên đường. Việc này còn giúp gìn giữ khái niệm kinh tế vỉa hè;

Cải thiện chất lượng lối đi bộ và các tiện nghi công cộng như là cung cấp các mái che tạo bóng mát nhằm khuyến khích người dân đi bộ và lối sống tích cực;

Cải thiện tính đa chức năng trên đường phố bằng cách tái thiết lập cấu trúc sử dụng đất dọc đường phố và tạo ra sự đa dạng loại hình kinh doanh phù hợp với sự đa dạng cộng đồng nhằm thu hút lưu dòng dịch chuyển của con người;

Cung cấp tầm nhìn thông thoáng và các tạo vật thị giác nhằm tạo cảnh quan đường phố;

Vỉa hè cần phải tăng cường tính tiếp cận;

Gìn giữ không gian đường phố sạch sẽ bằng cách đưa ra các quy định cho người dân, người bán hàng rong, các chủ cửa hàng và nâng cao vai trò và năng lực của cơ quan vệ sinh môi trường đô thị trong tuyến đường này;

Nâng cao tính an toàn cho người dân khỏi những nguy cơ như giao thông, tội phạm;

Khuyến khích các hoạt động tương tác trên đường phố tạo nên sự kết nối bền vững giữa những con người và môi trường nhằm tạo nên cố kết xã hội;

Thiết lập các điểm hoặc vùng cho những hoạt động tương tác xã hội và tìm hiểu văn hoá, lịch sử địa phương.

Những yếu tố này không chỉ có ý nghĩa trên phương diện tạo nên sức sống của một nơi chốn, nhưng cũng tạo nên sự công bằng mang tính môi trường cho các nhóm người khác nhau. Hiệu quả của việc cải tạo không gian đường phố có thể dựa vào những bối cảnh xã hội khác nhau và môi trường, dẫn đến những sự khác nhau trong kiểu mẫu hành vi- môi trường. Mỗi kiểu mẫu có những đặc điểm riêng mà cần những tiếp cận khác nhau.

Những nhà quy hoạch, thiết kế cần phải hiểu những đặc điểm cộng đồng ở đó dựa trên những nghiên cứu khoa học nghiêm túc, nhằm tạo ra một nơi chốn mà ở đó con người xích lại gần nhau hơn.

Lời cảm ơn
“Nghiên cứu này được tài trợ kinh phí bởi Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật – Đại học Đà Nẵng trong đề tài có Mã số T2019-06-125”.

Võ Thị Vỹ Phương
Đại học Sư phạm Kỹ thuật – Đại học Đà Nẵng; vtvphuong@ute.udn.vn
Đỗ Duy Thịnh
Đại học Xây dựng Miền Tây; doduythinh@gmail.com
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 07-2022)


Tài liệu tham khảo
[1] Drummond, L.B., Street scenes: practices of public and private space in urban Vietnam. Urban studies, 2000. 37(12): p. 2377-2391.
[2] https://ift.tt/eyuNFrK
[3] Jacobs, A.B., Great streets. ACCESS Magazine, 1993. 1(3).
[4] Thinh, D.D., Khoa học nghiên cứu về hành vi – môi trường: Cơ sở lý luận cho thiết kế môi trường kiến trúc. Vietnamese Architecture Journal, 2020(2).
[5] Do, D.T., S. Mori, and R. Nomura, An Analysis of Relationship between the Environment and User’s Behavior on Unimproved Streets: A Case Study of Da Nang City, Vietnam. Sustainability, 2018. 11(1): p. 1-19.
[6] Do, D.T., S. Mori, and R. Nomura, A Comparative Study of User Behaviors on Unimproved and Improved Street Spaces in Da Nang, Vietnam. Sustainability, 2019. 11(12): p. 3457.

The post Nghiên cứu chất lượng không gian mở tuyến đường Ông Ích Khiêm – Đà Nẵng appeared first on Tạp chí Kiến trúc - Hội Kiến trúc sư Việt Nam.



from Tạp chí Kiến trúc – Hội Kiến trúc sư Việt Nam https://ift.tt/YaHWzdA
Blog phát triển bởi https://tuvankientrucnha.blogspot.com/
Tìm kiếm đơn vị chuyên xây dựng công trình nhà ở Hà Nội https://thoxay.vn//

Thiết kế cảnh quan không gian mở và giảm nhiệt đô thị – Trường hợp nghiên cứu tại thành phố Hà Tĩnh

Tóm tắt

Khảo sát và mô phỏng vi khí hậu tại các không gian mở điển hình trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh được thực hiện vào các ngày nắng, nóng và quang mây từ tháng 5 đến tháng 8 của năm 2020 và 2021. Kết quả thu được cho thấy, giải pháp bổ sung bóng râm bằng cây bóng mát cho hiệu quả cao nhất. Bằng cách này, chỉ số Physiological Equivalent Temperature (PET) trung bình có thể giảm đi đáng kể, nhưng quan trọng hơn, trên toàn phạm vi của không gian mở, số lượng các vị trí có mức độ tiện nghi nhiệt cao được tăng lên rất nhiều, và do đó phục vụ tốt hơn các hoạt động của con người và làm cho địa điểm trở nên hấp dẫn hơn.

Từ khóa: tiện nghi vi khí hậu, hiệu ứng nhà kính, thông gió tự nhiên, che nắng, hiệu quả năng lượng, kiến trúc nhiệt đới Việt Nam, nhà văn phòng cao tầng, kính low-E,

1. Dẫn luận

Các không gian mở như vườn hoa, công viên, tiểu công viên … có ý nghĩa quan trọng đối với đô thị bởi đây là nơi dành cho người dân và du khách giao tiếp, sinh hoạt cộng đồng hoặc đơn giản chỉ là nghỉ ngơi để tận hưởng bầu không khí thoáng mát giữa lòng thành phố ngột ngạt. Các công viên, vườn hoa còn tạo nên điểm nhấn về cảnh quan, làm cho đô thị đẹp và hấp dẫn hơn. Ngoài những tác dụng kể trên, các không gian mở trong đô thị còn có thể làm giảm nền nhiệt trong những thời điểm nắng nóng, và qua đó nâng cao chất lượng khí hậu cục bộ (vi khí hậu).

Nhiều nghiên cứu tại các vùng khí hậu khác nhau trên thế giới đã chỉ ra khả năng giảm nhiệt đô thị của không gian mở phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm cảnh quan của không gian đó. Cụ thể, yếu tố có vai trò quyết định bao gồm tỉ lệ che phủ của cây xanh, vật liệu bề mặt và diện tích của không gian. ….

Tại các đô thị của Việt Nam, công tác quy hoạch mới chỉ quan tâm tới chỉ tiêu diện tích và mật độ không gian xanh trong đô thị, nhưng lại chưa có những chỉ dẫn thiết kế cảnh quan cho những không gian này. Trên thực tế, số lượng các không gian mở như công viên, tiểu công viên, vườn hoa … là không nhỏ và còn đang tăng lên tại nhiều nơi. Ví dụ, tại Hà Nội có 63 công viên, vườn hoa, năm 2022 sẽ cải tạo nâng cấp 45 công viên, vườn hoa (13 công viên và 32 vườn hoa). Hay như Hải Phòng năm 2021 đã xây dựng 21 công viên, đến năm 2022 tiếp tục xây dựng 50 công viên. Ở Hà Tĩnh là một đô thị mới 15 năm tuổi, hiện có 1 công viên trung tâm và 05 tiểu công viên ở các phường với quy mô khác nhau tùy thuộc vào quỹ đất hiện có và mức đầu tư, tài trợ. Nếu được thiết kế phù hợp, hệ thống các không gian này sẽ có đóng góp tích cực trong việc giảm nắng nóng đô thị. Mặc dù các lý thuyết về kiến trúc cảnh quan hay kiến trúc khí hậu đều khẳng định lợi ích giảm nhiệt của cây xanh, mặt nước nhưng vẫn cần có những nghiên cứu định lượng (bằng đo thực nghiệm và mô phỏng trên máy tính) để so sánh hiệu quả làm mát củva các yếu tố cảnh quan đã nêu, từ đó làm chỉ dẫn để có phương án thiết kế đạt hiệu quả giảm nhiệt cao nhất.

Trong khuôn khổ của dự án nghiên cứu “Hình thái đơn vị ở thích ứng khí hậu – Trường hợp nghiên cứu Thành phố Hà Tĩnh”, NCS. Ngô Hoàng Ngọc Dũng – Trường Đại học Leuven, Vương quốc Bỉ và Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, Việt Nam cùng cộng sự đã tiến hành quan trắc môi trường nhiệt tại một số không gian công cộng tiêu biểu cũng như mô phỏng vi khí hậu theo các kịch bản thiết kế cảnh quan cho một tiểu công viên tại thành phố Hà Tĩnh vào các năm 2020 và 2021. Bài báo này sẽ giới thiệu và phân tích một số kết quả quan trắc và mô phỏng nêu trên để đưa ra những đánh giá rõ ràng hơn về ảnh hưởng của thiết kế cảnh quan tới vi khí hậu đô thị.

2. Phương pháp

Thời điểm khảo sát và mô phỏng vi khí hậu tại các không gian mở điển hình trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh là vào các ngày nắng, nóng và quang mây từ tháng 5 đến tháng 8 của năm 2020 và 2021. Đây là khoảng thời gian có điều kiện rất thích hợp cho các nghiên cứu về nhiệt đô thị. Quá trình quan trắc và mô phỏng được miêu tả dưới đây.

2.1. Quan trắc

Hai địa điểm được lựa chọn để quan trắc môi trường vi khí hậu là (1) Quảng trường trung tâm và (2) Công viên Bồng Sơn. Tại địa điểm (1), vị trí đo (số 1) nằm ở giữa quảng trường trên nền lát đá, bị nắng trong suốt thời gian khảo sát. Tại địa điểm (2) có 02 vị trí khảo sát, một vị trí (số 2) nằm trên cỏ và không được che nắng, vị trí còn lại (số 3) nằm trên bề mặt cỏ, dưới tán cây và được che nắng trong toàn bộ thời gian đo. Ảnh chụp một thời điểm của quá trình quan trắc được trình bày ở hình 1.

Các thông số vi khí hậu được theo dõi bao gồm: nhiệt độ không khí (Ta), độ ẩm không khí tương đối (RH), nhiệt độ cầu đen (Tg), tốc độ gió (Ws) bằng các thiết bị đo được giới thiệu trong bảng 1, với khoảng đo (time interval) là 2 phút. Quá trình quan trắc được bắt đầu từ 7 giờ đến 18 giờ, vào ngày 12/5/2021.

Hình 1. Quá trình quan trắc vi khí hậu và tiện nghi nhiệt tại 03 địa điểm khảo sát
Bảng 1. Thông số kỹ thuật của các thiết bị đo

Để đánh giá mức độ tiện nghi nhiệt ngoài trời (Outdoor Thermal Comfort, OTC) tại các địa điểm khảo sát, kết quả quan trắc của các thông số vi khí hậu sẽ được dùng để tính hai chỉ số: Nhiệt độ bức xạ trung bình (Mean radiant temperature, Tmrt ) và Nhiệt độ sinh lý tương đương (Physiological Equivalent Temperature, PET [1]) bằng công cụ HoneyBee trên phần mềm Rhino3D Grasshopper. PET được sử dụng phổ biến trên thế giới để đánh giá tiện nghi nhiệt ngoài trời (OTC). Mặc dù PET ban đầu được đề xuất sử dụng cho khu vực châu Âu nhưng tới nay, thang đánh giá tiện nghi nhiệt theo chỉ số này đã được điều chỉnh để áp dụng cho vùng nhiệt đới nóng ẩm Singapore [2][3] và cận nhiệt đới Đài Loan [4]. Do chưa có một thang đánh giá riêng cho các vùng khí hậu tại Việt Nam nói chung và Hà Tĩnh nói riêng, nên nghiên cứu này sử dụng thang đánh giá tiện nghi nhiệt đã được xây dựng cho Singapore (bảng 2) vì có nhiều điểm tương đồng trong khí hậu.

Bảng 2. Thang đánh giá cảm giác nhiệt theo PET [3]
2.2. Mô phỏng

Trong nghiên cứu này, phần mềm mô phỏng vi khí hậu đô thị ENVI-Met [5] được sử dụng. Mục tiêu của mô phỏng là đánh giá vi khí hậu của các phương án thiết kế cảnh quan không gian mở trong một nhóm nhà ở thấp tầng sẽ được xây dựng tại Hà Tĩnh, từ đó xác định được phương án mang lại hiệu quả giảm nhiệt cao nhất. Nghiên cứu [6] cho thấy ENVI-Met là phần mềm có độ tin cậy cao, và phù hợp cho các nghiên cứu về khí hậu đô thị tại Hà Tĩnh và Việt Nam.

Khu vực nghiên cứu là một nhóm nhà ở cao 4 tầng (14m) nằm trong khu đô thị mới đường Hàm Nghi kéo dài được quy hoạch và sẽ được triển khai xây dựng trong khoảng 5 năm tới. Vị trí xây dựng và mô tả đơn giản đặc điểm không gian kiến trúc cảnh quan của nhóm nhà ở được trình bày trong hình 1. Theo quy hoạch của địa phương, không gian mở nằm giữa nhóm nhà có các cây cao 15m nằm dọc biên, và bề mặt của toàn bộ không gian là thảm cỏ.

Hình 2. Vị trí khu vực nghiên cứu trên bản đồ quy hoạch khu đô thị (trái) và tổng mặt bằng mô hình mô phỏng ENVI-Met (phải).
Bảng 3. Mô tả 04 phương án thiết kế cảnh quan không gian mở (tiểu công viên)

Để so sánh ảnh hưởng của các giải pháp kiến trúc cảnh quan tới vi khí hậu, tác giả đưa ra thêm 3 phương án, và được mô tả trong bảng 3. Các thông số được dùng để đánh giá chất lượng vi khí hậu là Nhiệt độ không khí và PET. Mô phỏng được thực hiện cho ngày 31/8/2020.

Khu vực nghiên cứu là một nhóm nhà ở cao 4 tầng (14m) nằm trong khu đô thị mới đường Hàm Nghi kéo dài được quy hoạch và sẽ được triển khai xây dựng trong khoảng 5 năm tới. Vị trí xây dựng và mô tả đơn giản đặc điểm không gian kiến trúc cảnh quan của nhóm nhà ở được trình bày trong hình 1. Theo quy hoạch của địa phương, không gian mở nằm giữa nhóm nhà có các cây cao 15m nằm dọc biên, và bề mặt của toàn bộ không gian là thảm cỏ.

3. Phân tích kết quả

3.1. Quan trắc vi khí hậu

Kết quả theo dõi các thông số vi khí hậu gồm Nhiệt độ không khí và PET tại các điểm đo vào ngày 12/05/2021 được thể hiện trên các đồ thị ở hình 2 và 3.

Có thể thấy từ các đồ thị hình 2 và 3 rằng cảnh quan và bề mặt tại các không gian mở trong đô thị có ảnh hưởng rõ rệt tới vi khí hậu cục bộ. Trong đó, địa điểm công viên Bồng Sơn, nơi có tỉ lệ bề mặt cỏ chiếm tới 80%, và mặt nước là 65% có nhiệt độ không khí thấp hơn từ 0.5 đến gần 2oC so với quảng trường Thành Sen, nơi có tới hơn 60% bề mặt được lát đá và rất ít cây bóng mát. Bề mặt cỏ và mặt nước phát huy tác dụng mạnh mẽ nhất vào khoảng thời gian từ 9 đến gần 20 giờ.

Đối với chỉ số Nhiệt độ sinh lý tương đương PET – chỉ số quan trọng nhất để đánh giá tiện nghi nhiệt, ảnh hưởng của cảnh quan kiến trúc lại càng rõ nét hơn. Cụ thể, tác dụng giảm nhiệt của cây bóng mát là lớn nhất. Tại điểm đo công viên có cây che bóng, nhiệt độ PET luôn thấp hơn hai điểm đo còn lại (không được che nắng) từ 1.5 đến gần 6oC. Mặc dù điểm đo ở công viên nằm ngoài tán cây có nhiệt độ không khí gần tương đương với điểm đo dưới bóng cây, nhưng giá trị PET tại điểm bị nắng vẫn cao hơn nhiều (lên tới gần 5oC, lúc 8g30) giá trị PET tại điểm được cây che bóng. Điều này được lý giải bởi (1) PET tương quan tỉ lệ thuận cao nhất với Bức xạ mặt trời (BXMT) và (2) khả năng ngăn BXMT của cây bóng mát tốt hơn mặt nước và thảm cỏ rất nhiều.

Trong bốn trường hợp nghiên cứu, trường hợp 3 với tỉ lệ mặt nước đạt khoảng 80% không gian mở mang lại nhiệt độ không khí (Ta) tại ngay không gian đó và dãy nhà lân cận (nằm ở cuối hướng gió) thấp hơn ba phương án còn lại từ 0.5 đến 1oC. So sánh sự phân bố nhiệt độ không khí theo không gian ở các phương án 1, 2 và 4, cũng có thể thấy tác dụng làm giảm nhiệt độ không khí của mặt nước vào giờ nóng ban ngày tốt hơn cả cây bóng mát, và tốt hơn rất nhiều thảm cỏ không có cây. Nguyên nhân đến từ khả năng bay hơi mạnh của mặt nước có diện tích lớn trong điều kiện thời tiết nóng khô (ở Hà Tĩnh), làm tăng nhiệt ẩn và giảm nhiệt hiện trong không khí, dẫn đến sự giảm nhiệt độ khá rõ nét. Trong khi đó, lượng bay hơi nước từ các lá cây và thảm cỏ thấp hơn, dẫn đến nhiệt độ không khí giảm ít hơn.

Tuy nhiên, tác động của cảnh quan tới OTC, cụ thể là tới giá trị PET giữa các phương án lại có sự khác biệt với nhiệt độ không khí. Trong khi mặt nước (Phương án 3) có thể làm giảm nhiệt độ tốt hơn cây bóng mát thì khả năng nâng cao tiện nghi nhiệt lại kém hơn đáng kể việc sử dụng bóng cây (Phương án 2). Nguyên nhân là bóng cây có thể ngăn phần lớn Bức xạ Mặt trời – BXMT trực tiếp (trực xạ) chiếu tới bề mặt, trong khi mặt nước lại không có khả năng này, mà BXMT là yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất tới PET hay OTC.

4. Kết luận

Thiết kế cảnh quan của tiêu công viên / không gian mở của khu ở có ảnh hưởng rất rõ rệt đến vi khí hậu cục bộ, tuy nhiên, hiện nay các phương án thiết kế cảnh quan cho những không gian này ở chưa được chú trọng, và vì thế có hiệu quả làm mát rất thấp.

Nghiên cứu đã thử nghiệm hiệu quả vi khí hậu của các giải pháp thiết kế kiến trúc cảnh quan tại các khu vực khác nhau và cho cùng một không gian mở của nhóm nhà ở thấp tầng tại Hà Tĩnh (Việt Nam). Kết quả quan trắc và mô phỏng cho thấy, giải pháp bổ sung bóng râm bằng cây bóng mát cho hiệu quả cao nhất. Bằng cách này, chỉ số PET trung bình có thể giảm đi đáng kể, nhưng quan trọng hơn, trên toàn phạm vi của không gian mở, số lượng các vị trí có mức độ tiện nghi nhiệt cao được tăng lên rất nhiều, và do đó phục vụ tốt hơn các hoạt động của con người và làm cho địa điểm trở nên hấp dẫn hơn.

Chỉ số PET phụ thuộc mạnh nhất vào Bức xạ mặt trời. Tại những vị trí ít được che nắng, chỉ số PET sẽ bị tăng lên đáng kể, dù vị trí đó có thể nằm sát mặt nước hoặc được thảm cỏ che phủ. Vì vậy, để nâng cao tiện nghi vi khí hậu hay chính là giảm PET, cần vận dụng việc tăng bóng đổ bằng việc bố trí thêm cây xanh hoặc kết cấu che nắng trong toàn bộ khu vực của sân, nhất là những vị trí có nhiều hoạt động của con người được diễn ra.

Phương án thiết kế cảnh quan hiện nay mới chỉ dự kiến trồng cây bóng mát ở chu vi của không gian mở, và có hiệu quả làm mát rất kém. Giải pháp chỉ dùng bề mặt cỏ hoặc mặt nước sẽ không thể làm giảm BXMT, và do đó không thể nâng cao chất lượng vi khí hậu. Luôn cần kết hợp cỏ, hoặc mặt nước với bóng mát của cây xanh hoặc các công trình kiến trúc lớn, nhỏ.

Cách bố trí không gian mở dạng tập trung tại khu dân cư thấp tầng như hiện nay chưa phải là phương án tạo ra chất lượng vi khí hậu cao nhất, vì không có hiệu quả làm mát rộng cho toàn khu ở. Vì vậy cần có các nghiên cứu tiếp theo về giải pháp bố trí, mật độ và vật liệu xây dựng công trình và bề mặt, qua đó có thể phát triển một hướng dẫn toàn diện về thiết kế đô thị nhằm thích ứng với khí hậu đô thị đang ngày càng trở nên khắc nghiệt.

ThS. KTS. Ngô Hoàng Ngọc Dũng
Khoa Kiến trúc và Quy hoạch, Trường Đại học Xây dựng
ThS. Biện Văn Quyền
TS. Lê Danh Minh
Khoa Sư phạm, Trường Đại học Hà Tĩnh
Hoàng Anh Đức
Sinh viên lớp 63KDF, Khoa Kiến trúc và Quy hoạch, Trường Đại học Xây dựng
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 07-2022)


Tài liệu tham khảo
[1] P. Hoppe, “The physiological equivalent temperature – a universal index for the biometeorological assessment of the thermal environment.,” Int. J. Biometeorol., vol. 43, no. 2, pp. 71–75, 1999.
[2] W. Yang, N. H. Wong, and S. K. Jusuf, “Thermal comfort in outdoor urban spaces in Singapore,” Build. Environ., vol. 59, pp. 426–435, 2013, doi: 10.1016/j.buildenv.2012.09.008.
[3] W. Yang, N. H. Wong, and G. Zhang, “A comparative analysis of human thermal conditions in outdoor urban spaces in the summer season in Singapore and Changsha, China,” Int. J. Biometeorol., vol. 57, no. 6, pp. 895–907, 2013, doi: 10.1007/s00484-012-0616-9.
[4] T. P. Lin and A. Matzarakis, “Tourism climate and thermal comfort in Sun Moon Lake, Taiwan,” Int. J. Biometeorol., vol. 52, no. 4, pp. 281–290, 2008, doi: 10.1007/s00484-007-0122-7.
[5] ENVI_met GmbH, “ENVI_Met – Decoding urban nature.” https://ift.tt/4ZKFfYS.
[6] N. Hoang et al., “Simulation of outdoor thermal conditions of sub-urban neighbourhood typology in Ha Tinh, Viet Nam Faculty of Engineering Technology, KU Leuven, Ghent, Belgium Faculty of Architecture and Planning, NUCE, Ha Noi, Viet Nam Abstract Key Innovations,” 2020.

The post Thiết kế cảnh quan không gian mở và giảm nhiệt đô thị – Trường hợp nghiên cứu tại thành phố Hà Tĩnh appeared first on Tạp chí Kiến trúc - Hội Kiến trúc sư Việt Nam.



from Tạp chí Kiến trúc – Hội Kiến trúc sư Việt Nam https://ift.tt/z6y3O5A
Blog phát triển bởi https://tuvankientrucnha.blogspot.com/
Tìm kiếm đơn vị chuyên xây dựng công trình nhà ở Hà Nội https://thoxay.vn//

Chuỗi Toạ đàm, tập huấn về Nghệ thuật công cộng, Không gian văn hoá sáng tạo công cộng

Nằm trong khuôn khổ Lễ hội Thiết kế Sáng tạo 2022 và Cuộc thi Thiết kế Nghệ thuật Công cộng Hà Nội 2022, trong hai ngày 04-05/10/2022 sắp tới, sẽ diễn ra Chuỗi Toạ đàm, tập huấn về Nghệ thuật công cộng, Không gian văn hoá sáng tạo công cộng vì sự phát triển bền vững của Hà Nội.

Chuỗi hoạt động trong khuôn khổ Cuộc thi và Lễ hội Thiết kế sáng tạo với kỳ vọng thu hút sự tham gia của các bên liên quan trong lộ trình xây dựng Hà Nội – TP sáng tạo. Chuỗi tọa đàm bao gồm:

  • 01 phiên tọa đàm tổng quan về vai trò của nghệ thuật công cộng đối với sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và không gian văn hóa sáng tạo công cộng gắn với phát triển bền vững của đô thị; xây dựng, vận hành và quản lý không gian văn hóa sáng tạo công cộng; dành cho đối tượng giới quản lý nhà nước các ngành văn hóa nghệ thuật có liên quan, và giới thực hành nghệ thuật sáng tạo trẻ tiềm năng tại Hà Nội.
  • 01 tập huấn về thiết kế, thực thi, duy trì và quản lý các tác phẩm nghệ thuật công cộng; dành cho đối tượng các tài năng thiết kế nghệ thuật trẻ tại Hà Nội (các nhóm dự thi).

Thông tin chi tiết về Chuỗi Toạ đàm:

Tên toạ đàm:

  • Tọa đàm 1: Không gian công cộng: Kết nối truyền thống và tinh thần đương đại
  • Tọa đàm 2: Tính đặc thù của địa điểm trong sáng tạo nghệ thuật công cộng

Thời gian: 08:00 ngày 04-05/10/2022

Địa điểm: Hội trường tầng 3, Trụ sở Hội KTS Việt Nam, số 40 Tăng Bạt Hổ, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Đơn vị tổ chức thực hiện:

  • Đơn vị chỉ đạo: Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội; Hội kiến trúc sư Việt Nam
  • Đơn vị chủ trì tổ chức: Sở Văn hóa thể thao Hà Nội
  • Đồng phối hợp tổ chức: Chương trình Định cư con người Liên Hợp Quốc (UN-Habitat), Tạp chí kiến trúc (Hội Kiến trúc sư Việt Nam);
  • Đơn vị phối hợp chuyên môn: Đại học Xây dựng Hà Nội; Đại học Kiến trúc Hà Nội; Đại học Mỹ thuật Công nghiệp; Đại học Khoa học công nghệ Hà Nội.
  • Đơn vị tư vấn nội dung: Khoa các khoa học liên ngành – Đại học Quốc gia Hà Nội.

Đăng ký tham gia Chuỗi Toạ đàm: https://forms.gle/gDzzt51GBhMByYL4A

Kết nối qua mạng xã hội Facebook: https://fb.me/e/1Whi7p5L7


Nội dung Toạ đàm:

TỌA ĐÀM I: KHÔNG GIAN CÔNG CỘNG: KẾT NỐI TRUYỀN THỐNG VÀ TINH THẦN ĐƯƠNG ĐẠI

Nội dung tọa đàm chia sẻ quan điểm của diễn giả về vấn đề hình thái những không gian công cộng của chúng ta có liên quan gì đến nền văn hóa đã sinh ra chúng, đồng thời cũng là dịp khám phá mối liên hệ giữa các đặc tính và tư duy truyền thống, mà nhiều trong số đó thường bị đánh giá khá tiêu cực, với các giá trị đương đại hay được đề cao trên thế giới ngày nay. Với sự dẫn dắt và trao đổi giữa các chuyên gia và các nhóm nghệ sĩ, tọa đàm cũng tiếp cận vấn đề xây dựng, vận hành và quản lý nghệ thuật công cộng tại các không gian công cộng – Hướng tới phát triển đô thị bền vững tại Hà Nội.

1. Thời gian: 09:00-11:30, ngày 4/10/2022
2. Địa điểm: 40 Tăng Bạt Hổ, Phường Phạm Đình Hổ, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
3. Hình thức: Trực tiếp
4. Chương trình

  • 08:30 Đăng ký đại biểu – Đón khách
  • 09:00 Tuyên bố lý do – Giới thiệu đại biểu:
    + Ông Jonghyo Nam- Quyền trưởng đại diện UN-Habitat tại Việt Nam
    + Ông Đỗ Đình Hồng- Giám đốc Sở Văn hóa thể thao Hà Nội
  • 09:30 Phát biểu khai mạc
  • 09:45 Bài trình bày: “Không gian Công cộng: Kết nối truyền thống và tinh thần đương đại”
    Diễn giả: TS.KTS Lê Phước Anh – Khoa Các khoa học liên ngành (Đại học Quốc gia Hà Nội)
  • 10:15 Bài trình bày: “Nghệ thuật công cộng và không gian công cộng – Những cơ hội tạo nên một đô thị có tính cộng đồng và sáng tạo hơn”
    Diễn giả: TS. Emmanuel Cerise, Giám đốc PRX-Vietnam, Đại diện Vùng Ile-de-France tại Hà Nội
  • 10:45 Thảo luận: Nghệ thuật công cộng và không gian công cộng hướng đến đô thị bền vững
    Điều phối: PGS.TS Phạm Quỳnh Phương – Khoa Các khoa học liên ngành, ĐH Quốc gia Hà Nội;
    Diễn giả: TS.KTS Lê Phước Anh;
    Khách mời:
    -TS.KTS Phạm Tuấn Long – Chủ tịch UBND quận Hoàn Kiếm;
    – TS.Emmanuel Cerise – Đại diện Vùng Ile-de-France đồng Giám đốc Cơ quan hỗ trợ Hợp tác quốc tế Vùng Paris tại Việt Nam (PRX-Vietnam)
    – Ông Trương Quốc Toàn (Viện PRX Vietnam)
  • 11:30 Tổng kếtÔng Đỗ Đình Hồng, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội

TỌA ĐÀM II: TÍNH ĐẶC THÙ CỦA ĐỊA ĐIỂM TRONG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT CÔNG CỘNG

Toạ đàm sẽ giới thiệu một trường hợp nghiên cứu cụ thể – Bài học kinh nghiệm về lên ý tưởng, thiết kế và thực hiện các tác phẩm nghệ thuật công cộng gắn với không gian công cộng vì đô thị bền vững, tạo không gian cho giới sáng tạo trẻ từ các lĩnh vực thiết kế văn hóa nghệ thuật khác nhau tương tác kết nối đồng thời phổ biến chi tiết nội dung cuộc thi và giải đáp thắc mắc dành cho đối tượng giới sáng tạo trẻ có hứng thú.

1. Thời gian: 09:00-11:30, ngày 5/10/2022
2. Địa điểm: 40 Tăng Bạt Hổ, Phường Phạm Đình Hổ, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
3. Hình thức: Trực tiếp
4. Chương trình

  • 08:30 Đăng ký đại biểu – Đón khách
  • 09:00 Giới thiệu tổng quan về nội dung tập huấn
    + Ông Jonghyo Nam- Quyền trưởng đại diện UN-Habitat tại Việt Nam
    + Ông Đỗ Đình Hồng- Giám đốc Sở Văn hóa thể thao Hà Nội
  • 09:20 Phát biểu khai mạc
  • 09:35 Bài trình bày 1: Tính đặc thù của địa điểm trong sáng tạo Nghệ thuật công cộng (tiếp cận từ dự án Skulptur Projekte ở TP Munster, CHLB Đức)
    Diễn giả: Phan Thùy Phương – Nghiên cứu sinh Đại học Bielefeld (Đức) – Thực tập sinh quốc tế, Khoa Các khoa học liên ngành, Đại học Quốc gia Hà Nội
  • 10:15 Bài trình bày 2: Nghệ thuật công cộng với sự tham gia của Cộng đồng (tiếp cận từ thực tế dự án phố bích hoạ Phùng Hưng và Phúc Tân) 
    Diễn giả: Họa sĩ Nguyễn Thế Sơn
  • 10:30 Thảo luận: Hình thành ý tưởng nghệ thuật công cộng gắn với không gian (văn hóa sáng tạo) công cộng trong đô thị bền vững:
    – Điều phối: Họa sĩ Trần Hậu Yên Thế;
    – Diễn giả: Phan Thùy Phương; Nguyễn Thế Sơn
    – Khách mời: Chuyên gia đến từ các trường ĐH
    – Các nhóm đăng ký dự thi Thiết kế Nghệ thuật công cộng 2022
  • 11:15 Tổng kết – Kết thúc tọa đàm

Đăng ký tham gia Chuỗi Toạ đàm:

© Tạp chí Kiến trúc

The post Chuỗi Toạ đàm, tập huấn về Nghệ thuật công cộng, Không gian văn hoá sáng tạo công cộng appeared first on Tạp chí Kiến trúc - Hội Kiến trúc sư Việt Nam.



from Tạp chí Kiến trúc – Hội Kiến trúc sư Việt Nam https://ift.tt/wNHmWpA
Blog phát triển bởi https://tuvankientrucnha.blogspot.com/
Tìm kiếm đơn vị chuyên xây dựng công trình nhà ở Hà Nội https://thoxay.vn//

Thứ Năm, 29 tháng 9, 2022

Gạch ốp lát thế hệ mới – Xu hướng lựa chọn cho công trình

Sự phục hồi của thị trường bất động sản cùng tốc độ đô thị hoá nhanh chóng tại Việt Nam trong 2 năm qua là tiền đề để ngành vật liệu xây dựng nói chung và gạch ốp lát nói riêng phát triển tương đối thuận lợi. Nhiều dòng sản phẩm mới xuất hiện hứa hẹn mang đến làn gió mới cho thị trường khi nhu cầu của người tiêu dùng ngày một tăng cao.

Thị trường cập nhật mẫu mã mới, người tiêu dùng vẫn loay hoay với tiêu chí cũ

Số liệu của Viện Kinh tế Xây dựng cho biết, nhu cầu mua bán gạch ốp lát đang gia tăng cùng tốc độ đô thị hóa. Ngành sản xuất này hiện chiếm tỷ trọng khoảng 60% sản phẩm tiêu thụ trong nhóm vật liệu xây dựng hoàn thiện bề mặt. Dự kiến sản lượng tiêu thụ gạch ốp lát năm 2022 sẽ lần lượt cán mốc 484 triệu m2 và 580 triệu m2, phần nào cho thấy nhu cầu cần thiết của loại vật liệu này trong các công trình xây dựng.

Nhìn về dài hạn, từ nay đến 2023, nhu cầu chi tiêu cho mặt hàng này được đánh giá sẽ còn tăng trưởng mạnh. Xu hướng dịch chuyển sang các dòng gạch phân khúc trung – cao cấp trên đà tăng. Tuy nhiên, lựa chọn sản phẩm thế nào để phù hợp với nhu cầu là điều không dễ dàng với người mua hiện nay. Sự nở rộ của các dòng gạch nội địa với chất lượng ngang tầm khiến nhiều tiêu chuẩn phân định chất lượng theo kinh nghiệm của người dùng đã không còn phù hợp.

Xu hướng sẵn sàng chi trả cho các sản phẩm cao cấp tăng đáng kể, nhưng nhiều khách hàng gặp khó khăn trong việc chọn sản phẩm đáp ứng đúng nhu cầu
Xu hướng sẵn sàng chi trả cho các sản phẩm cao cấp tăng đáng kể, nhưng nhiều khách hàng gặp khó khăn trong việc chọn sản phẩm đáp ứng đúng nhu cầu

Đã xưa rồi quan điểm gạch càng dày, càng nặng mới là gạch tốt

Thực tế, việc thay thế những viên gạch dày mình và nặng nề bằng những viên gạch mỏng nhẹ hơn không hề ảnh hưởng đến chất lượng hay độ bền của các công trình nhà ở. Chìa khoá nằm ở hai chữ công nghệ. Gạch ốp lát hiện nay đã được cải tiến đáng kể về kỹ thuật: xương gạch chuẩn porcelain, thiết kế mỏng nhưng vẫn đáp ứng hoàn hảo các tiêu chuẩn kỹ thuật, công năng sử dụng, đặc biệt là có độ bền không thua kém so với gạch truyền thống. Gạch mỏng hơn giúp tiết giảm chi phí vận chuyển, giảm khối lượng tường, tăng sức căng bề mặt men và đảm bảo tính thẩm mỹ theo thời gian… nâng cao trải nghiệm và tuổi thọ của công trình.

Gạch mỏng hơn giúp tiết giảm chi phí vận chuyển, giảm khối lượng tường, tăng sức căng bề mặt men và đảm bảo tính thẩm mỹ theo thời gian… nâng cao trải nghiệm và tuổi thọ của công trình
Gạch mỏng hơn giúp tiết giảm chi phí vận chuyển, giảm khối lượng tường, tăng sức căng bề mặt men và đảm bảo tính thẩm mỹ theo thời gian… nâng cao trải nghiệm và tuổi thọ của công trình

“Gạch đẹp cần đồng đều về thiết kế” không còn phù hợp với xu hướng mới

Quan điểm truyền thống về sử dụng gạch ốp lát phải giống hệt nhau từ thiết kế đến hoa văn để tạo tính đồng đều cũng không còn là sự lựa chọn hàng đầu của nhiều khách hàng. Một không gian mang tính nghệ thuật, đầy ngẫu hứng, không bị bó buộc theo một khuôn mẫu nào trong thiết kế kiến trúc mới là xu hướng đang lên ngôi.

Sự xuất hiện của các phong cách thiết kế mới “random face”, “random color”... của gạch ốp lát hiện nay giúp mang đến làn gió mới, độc đáo, thời thượng cho không gian sống
Sự xuất hiện của các phong cách thiết kế mới “random face”, “random color”… của gạch ốp lát hiện nay giúp mang đến làn gió mới, độc đáo, thời thượng cho không gian sống

Gạch ốp lát thế hệ mới ra đời phá vỡ những định kiến khắt khe về gạch nội địa

Các chuyên gia phân tích nhận định: Một số tiêu chuẩn, “định kiến” cũ đã không còn chuẩn xác khi các dòng gạch ốp lát thế hệ mới được đầu tư chỉn chu về kỹ thuật, công nghệ đã ra đời. Điển hình như Ecotiles – Dòng sản phẩm gạch ốp lát cao cấp dành riêng cho người tiêu dùng Việt Nam mà Hiệp Thuỷ Ceramics cho ra đời sau nhiều năm ấp ủ.

Dòng gạch ốp lát thế hệ mới xuất hiện, “cấu trúc” lại tiêu chuẩn lựa chọn gạch ốp lát của người tiêu dùng
Dòng gạch ốp lát thế hệ mới xuất hiện, “cấu trúc” lại tiêu chuẩn lựa chọn gạch ốp lát của người tiêu dùng

Gạch Ecotiles độ mỏng vừa phải (8-9mm), không chỉ đảm bảo tính thẩm mỹ trong thi công, mà còn phù hợp với điều kiện thời tiết đặc trưng của các vùng miền Việt Nam. Bên cạnh đó, hầu hết các dòng gạch của Ecotiles đều có thêm khổ gạch lớn, đáp ứng được yêu cầu của nhiều công trình.

Về mẫu mã, phần lớn các dòng gạch mới hiện nay đều tiệm cận đến các giá trị tự nhiên, điển hình như Ecotiles với khả năng mô phỏng hoàn hảo chất liệu tự nhiên, công nghệ in đã được cải tiến sang kỹ thuật số tối ưu độ sắc nét và bền bỉ của hoa văn. Bên cạnh đó, các yếu tố về độ bóng và độ cứng cao, hiệu ứng màu sắc bền bỉ, men tinh thể độc đáo và ưu việt… Những yếu tố trở thành giá trị cốt lõi khiến Ecotiles nhận được nhiều yêu mến của người tiêu dùng.

Có thể nói, sự thăng hoa của thị trường gạch ốp lát nội địa là trái ngọt của sự cải tiến không ngừng về công nghệ và nỗ lực phát triển của các đơn vị trong ngành. Một số đơn vị thương mại lớn hiện nay như Hiệp Thuỷ Ceramics đã bắt đầu chuẩn hoá quy trình dịch vụ, cung cấp cho người dùng giải pháp toàn vẹn: từ tư vấn, hướng dẫn, chăm sóc hậu mãi đến đội ngũ chuyên gia và các kiến trúc sư sẽ đồng hành cùng khách hàng trong suốt quá trình chọn mua và lắp đặt.

Việc cung cấp giải pháp toàn vẹn cho công trình giúp Ecotiles trở thành sự lựa chọn hàng đầu của các dự án bất động sản cao cấp hiện nay
Việc cung cấp giải pháp toàn vẹn cho công trình giúp Ecotiles trở thành sự lựa chọn hàng đầu của các dự án bất động sản cao cấp hiện nay

Thế hệ gạch ốp lát kết hợp công nghệ cao đã và đang khắc phục được những nhược điểm của dòng gạch truyền thống cũ, mở ra thị trường sôi động đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Người tiêu dùng thông thái giờ đây đã có thể cởi mở hơn để đón nhận những bước tiến mới của thị trường, lựa chọn được những sản phẩm ưng ý, cùng các giải pháp toàn vẹn cho ngôi nhà của mình.

Về Hiệp Thủy Ceramics:

Ra đời vào năm 2005, Hiệp Thủy Ceramics cung cấp các sản phẩm gạch ốp lát dẫn đầu về xu hướng thiết kế, về mẫu mã sáng tạo và chất lượng vượt trội cho thị trường nội địa và xuất khẩu.

Để biết thêm thông tin chi tiết về Hiệp Thủy Ceramics và các sản phẩm, truy cập: https://hiepthuyceramics.vn/

© Tạp chí Kiến trúc

The post Gạch ốp lát thế hệ mới – Xu hướng lựa chọn cho công trình appeared first on Tạp chí Kiến trúc - Hội Kiến trúc sư Việt Nam.



from Tạp chí Kiến trúc – Hội Kiến trúc sư Việt Nam https://ift.tt/Lvd75nH
Blog phát triển bởi https://tuvankientrucnha.blogspot.com/
Tìm kiếm đơn vị chuyên xây dựng công trình nhà ở Hà Nội https://thoxay.vn//

“Giải oan” cho máy rửa chén

Nếu bạn lưỡng lự về việc “có nên mua máy rửa chén không?” thì bài viết này sẽ giúp bạn có cái nhìn khác về máy rửa bát qua việc giải đáp những hiểu lầm về máy rửa chén trong suốt thời gian qua.

1. Dùng máy rửa chén tốn nước ?

Một hiểu lầm phổ biến là quan điểm tự rửa chén giúp kiểm soát và tiết kiệm lượng nước tiêu thụ. Tuy nhiên, những thông số lại cho thấy điều ngược lại! Khi rửa bằng tay, cần tối thiểu 35 lít nước cho 2 – 3 lần rửa. Để rửa cùng số lượng chén dĩa, máy rửa chén chỉ tiêu thụ 6 – 24 lít nước, nghĩa là khoảng 1/3 lượng nước sử dụng khi rửa chén bằng tay.

Đối với máy rửa chén Malloca có thêm chức năng Water box của một số máy rửa chén Malloca giúp bạn tiết kiệm nước thêm 5.4 lít nước.

2. Máy rửa chén dùng tốn điện?

Nói về năng lượng tiêu thụ, thông thường, máy rửa chén chỉ sử dụng 0,9 kW mỗi giờ, rửa chén bằng tay tốn đến 2,6 kW cho các thiết bị điện khác cần sử dụng như điện chiếu sáng, quạt/máy điều hòa trong cùng khoảng thời gian.

Máy rửa chén Malloca tối ưu hóa các chức năng sử dụng hiệu quả năng lượng điện
Máy rửa chén Malloca tối ưu hóa các chức năng sử dụng hiệu quả năng lượng điện

Khi sử dụng máy rửa chén Malloca bạn chỉ tiêu tốn 189 kWh/năm, ngoài ra, khi lựa chọn những chức năng thông minh như chế độ Eco (chương trình rửa ở chế độ sử dụng áp lực nước chủ yếu), Halfload (Rửa nửa tải, với lượng chén đĩa ít) cũng như công nghệ Auto Door máy rửa xong cửa tự động mở ra, giúp chén được sấy khô hơn và tiết kiệm điện năng.

Chú ý tem mức năng lượng khi chọn máy rửa chén
Chú ý tem mức năng lượng khi chọn máy rửa chén

Để lựa chọn máy rửa chén phù hợp với khả năng tối ưu – tiết kiệm năng lượng phù hợp với thu nhập, bạn nên chú ý đến tem hiệu quả năng lượng, ưu tiên chọn những loại máy có mức hiệu quả năng lượng ở mức A+++ (tiêu chuẩn Châu Âu) hoặc có 5 sao năng lượng theo chuẩn TCVN 7896:2008 Việt Nam. Nếu bạn đang so sánh hai thiết bị có cùng một nhãn năng lượng, ví dụ đều cùng có nhãn A, hãy xem xét kỹ hơn số liệu về mức tiêu thụ năng lượng để xác định thiết bị nào dùng điện ít hơn.

3. Máy rửa chén không sạch?

Máy rửa chén hoạt động nhờ hệ thống vòi phun nước áp lực cao. Ngoài ra, tại một số chương trình, máy dùng nước nóng ở nhiệt độ trên 60oC để làm sạch nên khả năng khử khuẩn tốt hơn so với rửa tay. Khuyến cáo duy nhất khi sử dụng máy rửa bát là phải dọn dẹp những mẩu thức ăn thừa lớn, những mẩu thức ăn nhỏ, các vết bẩn máy rửa chén đều có thể tự xử lý. Việc “tráng qua” chén, đĩa trước khi cho vào máy là không cần thiết.

Máy rửa có thể rửa cùng lúc 14 bộ chén đĩa Châu Âu cùng một số vật dụng bếp cùng một lúc
Máy rửa có thể rửa cùng lúc 14 bộ chén đĩa Châu Âu cùng một số vật dụng bếp cùng một lúc

Ngoài ra, để máy hoạt động hiệu quả nhất, chén đĩa khô và sạch hơn, bạn nên sử dụng nước rửa chén và nước làm bóng chuyên dụng dành cho máy rửa chén, thường xuyên bổ sung muối để làm mềm nước tốt hơn. Đồng thời, định kỳ vệ sinh máy rửa chén hàng tuần để các bộ phận hoạt động tốt nhất và không để vi khuẩn, nấm mốc gây mùi khó chịu có điều kiện phát triển.

4. Chỉ dành cho bếp rộng, bếp nhỏ thì quên đi?

Nhiều mẫu mã được thiết kế phù hợp với thiết kế và diện tích bếp khác nhau: như đặt bàn, độc lập, lắp âm vào tủ và máy rửa chén dạng kéo. Với những bếp nhỏ nên sử dụng những loại lắp đặt âm vào tủ/mặt bếp, hoặc với không gian di chuyển trong bếp hẹp thì máy rửa chén dạng kéo là lựa chọn phù hợp với gian bếp nhà bạn nhất.

Máy rửa chén kết hợp chậu inox WQP6-890F4 lắp âm vào mặt bàn phù hợp cho những căn bếp
Máy rửa chén kết hợp chậu inox WQP6-890F4 lắp âm vào mặt bàn phù hợp cho những căn bếp

Đối với mẫu máy độc lập, hay để bàn sẽ chiếm thêm phần diện tích để đặt tạo cảm giác bếp hẹp ít không gian hoạt động, những mẫu máy này phù hợp với những căn bếp rộng hoặc bếp nhỏ nhưng không thể/chưa sửa được kết cấu tủ bếp để lắp đặt âm.

Máy rửa chén MDW14-S10TFT có thể lắp đặt âm tủ / hoặc đúng độc lập phù hợp với diện tích bếp
Máy rửa chén MDW14-S10TFT có thể lắp đặt âm tủ / hoặc đúng độc lập phù hợp với diện tích bếp

Khi công nghệ càng phát triển, những thiết bị bếp ngày càng trở nên tiện dụng hơn với nhiều chức năng không ngừng cải tiến phục vụ nhu cầu của người dùng giúp tiết kiệm thời gian và chi phí vận hành. Bộ sưu tập Máy rửa chén Malloca 2022 mang đến cho bạn những trải nghiệm tốt nhất với thiết kế đẹp mắt, kích thước và lắp đặt phù hợp với mọi diện tích bếp và tiết kiệm chi phí vận hành máy tối ưu nhất.

Website: https://malloca.com/
Hotline: 1800 1212

© Tạp chí Kiến trúc

The post “Giải oan” cho máy rửa chén appeared first on Tạp chí Kiến trúc - Hội Kiến trúc sư Việt Nam.



from Tạp chí Kiến trúc – Hội Kiến trúc sư Việt Nam https://ift.tt/1x7oOVr
Blog phát triển bởi https://tuvankientrucnha.blogspot.com/
Tìm kiếm đơn vị chuyên xây dựng công trình nhà ở Hà Nội https://thoxay.vn//