Thứ Hai, 11 tháng 9, 2023

Không gian văn hóa làng xưa Lộc Yên – Quảng Nam

Đã có nhiều bài báo giới thiệu về làng cổ Lộc Yên, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Để hiểu thêm giá trị độc đáo của làng xưa vùng trung du xứ Quảng này, tôi xin đóng góp vài suy nghĩ về việc hình thành không gian và sử dụng vật liệu của người xưa khi thành lập, xây dựng làng cổ độc đáo này.

Làng cổ Lộc Yên
bản vẽ 1, sơ đồ bố trí nhà xưa ở Lộc Yên

Làng thì phải có nhà. Nhà cổ có giá trị đặc trưng riêng, tuy nhiên thường thì nó luôn được người xưa xây dựng trong một không gian tương ứng với giá trị của nó. Và vì vậy việc bảo tồn nhà cổ phải bắt đầu từ việc khôi phục không chỉ kiến trúc mà phải chú trọng đến không gian chung quanh.

Nói đến văn minh “ở” là nói đến “nếp ở”, như vậy sự lựa chọn vị trí dựng nhà đến loại nhà và kiểu thức nhà phải phù hợp với cảnh quan, địa lý vùng mà mình sinh sống. Các cư dân Việt từ miền Bắc vào Quảng Nam đến Tiên Phước muộn hơn các huyện ở đồng bằng như Tam Kỳ, Thăng Bình, Điện Bàn… Bằng những trải nghiệm của người đi trước cộng với tri thức của người địa phương được gọi là “Tri thức bản địa” mà khi dựng nhà làm nơi trú ẩn người ta phải dựa vào phong thủy (đồi núi, khe nước), khai thác nguyên vật liệu xây dựng tại chỗ mà chủ yếu là thảo mộc (mây, tre, gỗ) cùng với đất đá để làm nên các kiểu thức, kết cấu bền vững phù hợp khí hậu của vùng trung du: Mưa nhiều, nắng nóng và độ ẩm cao… Không gian kiến trúc làng Lộc Yên, Tiên Phước là một không gian văn hóa nhà cổ trung du tiêu biểu của tỉnh Quảng Nam.

Tiên Phước nói chung là vùng bán sơn địa, chỗ cao là gò, đồi, vùng trũng thấp là thung lũng với suối khe. Làng này cách làng kia thường là những dãy đồi và giới hạn chu vi của làng bởi phần đồi bao quanh có thung lũng bên trong. Làng Lộc Yên cũng với cảnh quan trên, mặc dù trải qua sự biến thiên thay đổi của thiên nhiên cũng như sự hủy diệt của chiến tranh. Nhưng đến nay qua nhiều thế hệ sinh sống vì vẫn luôn được gìn giữ trân trọng bởi người đi sau nên Lộc Yên vẫn còn giữ nét đẹp thiên nhiên ban đầu. Khi đến thăm Lộc Yên, rất nhiều khách thập phương đều đồng ý rằng cảnh quan ở đây là đủ mang đặc trưng cho vùng trung du của cả huyện Tiên Phước. Cái tên Tiên Cảnh đã chứng minh về cái lý mà người xưa đặt tên cho xã, trong đó có làng Lộc Yên.

Chỉ một con đường dẫn vào làng, uốn lượn sát mép của ruộng lúa hai bên, con đường chính này có đoạn dường như là đường trung tâm ở giữa thung lũng chia cắt rõ nét hai phần đất làng với dãy gò đồi ở hai bên. Vào làng bên tay trái là Gò Tròn, tay phải là Gò Ngang, các khe nước đám ruộng thấp là Vũng Trâu.

Trong những cuộc khảo sát gần đây, được tiếp xúc với nhiều bậc cao niên trong làng (như Cụ Nguyễn Huỳnh Anh đã mất vào tháng 6/2007 thọ 93 tuổi) thì khi những cư dân ở đồng bằng lên đây khai canh, lập làng trong đó có Cụ cố Nguyễn Đình Hoằng đã chọn phần đồi bên trái (Gò Tròn) để xây dựng nhà ở, những cư dân đến sau tiếp tục dựng nhà ở đồi bên phải (Gò Ngang).

Để dễ dàng tiếp cận không gian mang chiều sâu của vùng sinh thái bán sơn địa mà con người của làng hàng ngày hít thở, không gian sống, một môi trường xanh đẹp thấm đậm tính thơ mà làng Lộc Yên xưa, nay là Thôn 4 còn giữ được, tôi tạm chia vùng sinh thái này ba không gian theo thứ tự tiếp cận từ ngoài vào trong.

1. Không gian sản xuất: Vùng này nằm ở giữa thung lũng, ở đây không gian hẹp bị chia cắt bởi khe nước, bờ chắn bên cạnh những ruộng lúa, cây màu bậc thang cao dần và chấm dứt ở chân đồi. Vào mùa hè khô hạn, nhưng nguồn nước từ các khe đá, nguồn mạch từ đồi đá ở hai bên, trên cao thẩm thấu xuống đủ để cho nông dân có thể tiếp tục canh tác. Về mùa mưa lũ, nước từ các khe suối chính cũng như trên gò cao chảy xuống dồn vào giữa thung lũng nên người làng thường dự phòng để cây trồng không bị lũ trôi, đất ở trên đồi không bị lỡ, chuồi chảy. Nhờ biện pháp, kỹ thuật ngăn bờ bậc thang, hướng dòng chảy bằng cách be bờ giữ bằng đá thiên nhiên khai thác tại chỗ mà nước được giữ để canh tác theo kiểu tầng bậc làm tăng thêm diện tích canh tác ở thung lũng hẹp này.

Trong không gian sản xuất đặc trưng của vùng gò đồi – Ruộng bậc thang – dòng nước luôn chuyển dịch, đã mang đến cho người khách lẫn chủ một cảm giác: Sinh sôi, no đủ đến cả sự yên tĩnh thanh bình của vùng đồi. Mùa xuân Lộc Yên, không gian đồi, gò tràn ngập chồi non lộc biếc; mùa hạ, mùa thu vườn rợp mát cau, bòn bon, thanh trà… và những chiều nắng xuyên đồi phủ ánh sáng lấp lánh, óng mượt trên những tán cây và vàng thêm màu lúa chín dưới ruộng sâu… Vào mùa nước chảy, động vật thủy sinh bơi lội bên dưới khe nước chuyển dịch liên tục từ cao xuống thấp tạo tiếng róc rách muôn thuở làm không gian nơi đây thêm nét sinh động, luân chuyển vốn có của thiên nhiên. Có thể nói rằng sự khó nhọc của bao thế hệ thuần nông nơi làng Lộc Yên, chân lấm tay bùn đã tạo nên cho không gian sản xuất này luôn đầy ắp sự no đủ của vật chất và sự thư giãn, nghỉ ngơi của tinh thần.

2. Không gian thiên nhiên – môi trường sống: Qua khỏi những bờ ruộng bậc thang hướng lên Gò Đồi, nơi đây là không gian sống với cây lá, bờ đá, ngõ đá tạo nên trong không gian với màu xanh của cây vườn, làm cho mái ngói nâu đỏ của những ngôi nhà cổ nổi bật lên, tăng thêm sức quyến rũ và sự ấm áp của mùa đông, sự mát lạnh trong mùa hạ. Đặc trưng của việc bố trí mặt bằng tổng thể khu vườn đồi, ở đây là các bờ đá, ngõ đá và cả lối đi bằng đá, tưởng rằng như cách thức khai thác đá và gia công như ở vùng đồng bằng – Nhưng làng Lộc Yên cũng như các làng khác ở vùng trung du Tiên Phước có cách khai thác và tạo dựng vườn bằng kỹ thuật xếp đá công phu và độc đáo. Việc lấy đá ở đây không phải chỉ có mục đích để ngăn bờ, làm ngõ, làm nhà. Công việc đầu tiên mà người dân khi đến đây sống được là cần có đất để sản xuất. Hầu như đồi gò xung quanh làng là đá nằm ủ, lẫn lộn trong đất. Trải qua bao công khó nhọc của người đến lập làng đến ngày hôm nay vẫn phải tiếp tục giải phóng đất có lẫn đá để canh tác, như vậy một công hai việc, thứ nhất là tăng thêm diện tích cây trồng; thứ hai, đá được đào lấy đi xếp thành bờ ngăn, bờ rào, giới hạn cho khu vườn thuộc sở hữu của gia đình mình, ngăn nước, giữ nước tạo lối đi, tạo nên cổng ngõ xinh xắn. Kỹ thuật xếp đá tự nhiên không phải gia công phức tạp (cắt, chẻ, …) được xếp thành bờ tường không quá cao (từ 1m đến 1,2m) theo kiểu đế lớn chóp nhỏ dần, viên lớn ở dưới, viên nhỏ ở trên gài đan xen không cần xi măng nhưng vẫn vững chãi. Cây cỏ, địa y có thể dễ dàng mọc xen vào các khe đá, bề mặt. Theo thời gian, những ngõ đá, thềm đá được bàn tay con người sắp đặt, tạo dựng, thảm thực vật phủ kín đã làm xanh hóa và mềm đi sự khô cứng, nóng bức của đá; góp phần tạo ra nét cổ kính trầm mặc của không gian văn hóa làng cổ. Phải nói rằng, người dân các làng ở Tiên Phước, trong đó có làng Lộc Yên luôn luôn tự hào các ngõ đá được xếp đặt khéo léo và mang tính nghệ thuật cao. GS.KTS Hoàng Đạo Kính trong lần thăm làng gần đây đã ngỡ ngàng trước những ngõ đá xinh xắn, phải thốt lên đây là nghệ thuật sắp đặt mang tính “thẩm mỹ dân gian”. Sự biết dừng lại, khéo léo trong ứng xử với thiên nhiên, dựa theo vẻ đẹp vốn có của nó đã nâng cao tính nhân văn của người xưa biết sống hòa hợp với thiên nhiên.

Cũng như việc bố trí mặt bằng khu vườn, việc xác lập vị trí dựng nhà ở trong khu đất mình sở hữu của cư dân ở vùng đồng bằng Xứ Quảng và vùng trung du Tiên Phước đều có nét tương đồng. Không gian sống với môi trường xanh, vừa tuân thủ theo nguyên tắc phong thủy, nhưng lại khắc phục, phòng tránh mọi khắc nghiệt của thiên nhiên của vùng đồi núi, lấy yếu tố hoà hợp làm đầu, dẫn chứng như: “Trước cau, sau chuối (chống cái nắng); “Lấy vợ hiền hoà, làm nhà hướng Nam” (phong thủy). Đặc biệt, vị trí dựng làng ngày xưa được các bậc tiền hiền vận dụng đúng yếu tố phong thủy của bậc vua chúa như “Tả Thanh Long” – Đứng trong nhà nhìn ra tay trái là thanh long (rồng xanh) gồm núi đồi, hàng cây, trước có khe nước, hồ (nhân tạo), suối. Đồi núi bên trái luôn cao hơn bên phải. Bên phải “Bạch Hổ” này cũng có thế đất cao, có đường lộ dẫn vào làng vào nhà. Mặt trước có “Minh đường” với dòng nước thủy tụ ruộng đồng (vũng trâu), xa có Tiền án hay Chu tước (1) che chắn (Hòn ngang) và đắc địa hơn là phía sau, hướng Bắc có “Huyền vũ” (Gò tròn) với đồi cây làm hậu tẫm, bao bọc (bản vẽ 2, phần mặt bằng tổng thể, nhà cổ cụ Nguyễn Thống, cụ Đồng Viết Mão).

Một thực tế làm chúng tôi suy nghĩ là có những ngôi nhà nằm bên kia đồi hướng Nam (Hòn ngang) tuy được yếu tố tốt là nằm lưng chừng đồi (2) nhưng hướng nhà phải là hướng Bắc (gió bấc lạnh) không thuận lợi về hướng. Điều này có thể lý giải như sau: Trong lịch sử lập làng, vì cảnh quan môi trường (thế đất, biểu tượng về ý nghĩa phong thủy được đề cao như “tả thanh long, hữu bạch hổ”, những người đến trước như dòng họ của cụ Nguyễn Huỳnh Anh đều dựa theo mô hình quy hoạch làng truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ áp dụng cho việc lập làng, lập vườn, dựng nhà tại làng Lộc Yên nói riêng và Tiên Phước nói chung. Mặt khác, do chú trọng tới yếu tố sức khỏe của cả cộng đồng và gia đình nên đã chọn vị trí đồi phía Bắc (tay trái từ đường chính vào làng) dễ dựng nhà với ý nghĩa “Tọa Bắc triều Nam” dựa lưng về Bắc, hướng mặt về Nam, đón được gió Nam mát, tránh gió phía Bắc lạnh; dựa vào đồi phía sau (Gò tròn) tránh được gió Bắc khắc nghiệt và nắng gay gắt từ phía Tây, hợp với ý nghĩa mà dân gian đã có câu: “Lấy vợ hiền hoà, làm nhà hướng Nam”. Những cư dân đến sau không còn được phần đất tốt để cư trú cho nên là người đến sau với phần đất bên kia đồi phía Nam (Hòn Ngang) nhà phải quay về hướng Bắc (vị trí không hợp với mưa gió, mặt chính nhà không thể quay lên trên đồi, vì vậy phải quay xuống trúng về hướng Bắc (Đông Bắc hoặc Tây Bắc). Cái hướng mà hầu như người Việt chúng ta thường tránh khi dựng nhà. Từ đó, việc quy hoạch trong lập vườn, trồng cây, tạo lối đi đều phải dựa theo thế đất, nguồn nước. Những khu vườn ở trong thiên nhiên này như nhà cụ Nguyễn Thống, nhà cụ Nguyễn Đình Huỳnh, nhà cụ Nguyễn Ngọc Anh… thuộc những dòng họ đến sau, không may mắn chọn được thế đất “Đắc địa” nhưng qua bao thế hệ vẫn trụ vững, khắc phục được sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Quan sát thì các khu vườn của những hộ dân trên đều có ngõ đá, bờ đá dẫn vào nhà, hàng cây chè tàu được trồng song song bờ đá, các cây kiểng, hoa trang trí (mai, hồng) vẫn được chăm chút ở phía trước sân gạch phơi lúa. Các cây ăn quả, lấy gỗ, lấy dầu, những cây đặc sản của Tiên Phước như: Chuối, mít, bòn bon, thanh trà, quế, tiêu đều được trồng chen nhau toả khắp xung quanh nhà, và chủ nhà cũng có kinh nghiệm trồng các loại cây cao bóng mát ở phía trước để chống nóng, chống gió.

Nhìn chung, dẫu chọn không gian sống là vườn đồi bên trái phía Bắc (Gò tròn) hay đồi bên phải (Gò ngang) thì làng vẫn được hưởng cái nguồn mạch phát triển sinh sôi. Những ngôi nhà có đồi núi phía sau cơ bản nhận được những yếu tố phong thủy tốt nhất (2).

Đặc biệt, cây cối vườn tược sau nhà luôn luôn xanh tốt nhờ nguồn nước thiên nhiên (nhà cụ Nguyễn Huỳnh Anh) từ đá núi chảy ra, vách núi đá không cao, không bị sụt lỡ, cùng huyền vũ bảo vệ chính là yếu tố quan trọng nhất. Vấn đề hướng nhà được các cư dân đến sau dần dần khắc phục, hóa giải, giữ yếu tố thiên nhiên: Cây cỏ, đất đá, sông suối làm không gian sống, đó là phương cách mà người làng Lộc Yên trải qua nhiều thế hệ đã đưa lên hàng đầu tạo nên mối quan hệ: Con người, môi trường thiên nhiên thân thiện hơn.

3. Không gian ở và ngôi nhà của cư dân Lộc Yên: Là nhà ở, nơi trú ẩn, nhưng nếu làm nhà trên đỉnh đồi thì rơi vào thế “cô phong độc vũ” nhà phải hứng gió, sấm sét và các yếu tố khác như thanh long, bạch hổ, huyền vũ đều không có. Vì vậy, khi dựng nhà người xưa đã dựa vào khu vườn đồi xanh kín ở trên, các loại cây, thảm thực vật bên dưới dễ sinh sôi trong môi trường ẩm của vùng đồi đá và ở vị trí lưng chừng đồi. Người xưa đã tạo ra những ngõ đá, những lối nhỏ uốn lượn bằng đá dẫn vào nhà. Điểm cuối cùng của lối dẫn vào nhà không trùng tim(3) (tâm) của gian giữa, vào nhà luôn luôn qua một sân rộng, ngày trước là nền đất sau lát gạch, ngày nay một số nhà láng xi măng.

Cũng như các ngôi nhà ở đồng bằng, người Lộc Yên khi dựng nhà ở lưng chừng đồi, nhà bếp, chuồng bò, heo, gà,… bố trí cao thấp tùy theo độ dốc của đồi. Bố cục tổng thể chung của các công trình thường được sắp xếp như sau: Lấy huyện Tiên Phước (17 ngôi nhà) nằm ở Tây Nam Quảng Nam mà người xưa tự làm qui hoạch mà theo tôi đánh giá là phù hợp sinh thái (6) mang những đặc trưng về địa hình với đồi núi, khí hậu, cảnh quan, cây trồng… cần giới thiệu với những đặc trưng này là làng cổ Lộc Yên.

  • Đặc điểm phổ biến:
    • Dùng đá tự nhiên xếp tạo nên đường đi, ngõ, lối dẫn vào nhà cùng làm bờ ngăn giữ đất để sản xuất. Được gọi chung là “ngõ đá”;
    • Nhà thường làm lưng chừng đồi, hướng nhìn ra ruộng hay khe nước;
    • Lối vào nhà thường có bờ kè đá hai bên, bố trí bên phải (nhìn ra) và lệch với tim nhà chính .
    • Cây trồng thường là giống bản địa (Bòn bon, Quế, Tiêu, Thanh trà…) và là nguồn thu chính của gia đình;
    • Vật liệu làm nhà chủ yếu khai thác tại chỗ (gỗ mít, tre, đất, đá )…
  • Nhà chính – nhà cầu – nhà ngang thẳng góc và luôn luôn nằm bên trái nhà chính (ảnh 3, vị trí nhà chính và nhà ngang);
    • Nhà bếp bố trí sau nhà ngang, các chuồng trâu, bò, gà,… bố trí tiếp sau nhà bếp hoặc nhà ngang;
    • Giếng nước lấy nguồn từ đồi đá bên trên hoặc đào bên phải hoặc bên trái trước mặt nhà. Ngày nay người ta dùng máy bơm, ống nhựa dẫn nước từ trên khe nguồn về.
    • Ao cá – bể cạn được bố trí trước mặt nhà;
    • Vật liệu xây dựng: Có thể khẳng định rằng lúc các cư dân đến lập làng dựng nhà sinh sống thì hầu như các kiến trúc đều sử dụng nguồn vật liệu xây dựng có ngay tại địa phương đó là thảo mộc, riêng ở Lộc Yên có thể gọi thêm thổ mộc. Đầu tiên phải là khung sườn bằng tre, thân cũng bằng tre, trát bằng hỗn hợp đất và rơm rạ hoặc xây bằng đá vữa, bằng đất sét. Cả phần trần mái cũng đắp đất trộn rơm và cuối cùng bên trên là phần mái lợp bằng tranh – nhà Lá Mái. Truyền thống làm nhà bằng gỗ mít (tên khoa học là Artocarpus heterophyllus thuộc họ dâu tằm Moraceac) từ đồng bằng du nhập lên, cũng phải đợi khi cây mít trồng trong vườn đủ to để có phần lõi tốt cho việc làm nhà (30 năm trở lên), cũng có thể người làng mua gỗ từ nơi khác mang đến. Tuy nhiên, việc dựng nhà gỗ là nhà Rường thì rất tốn kém, và khi người trong làng giàu có, đủ ăn đủ mặc, dư giả mới dựng được nhà. Theo điều tra của chúng tôi thì cụ Nguyễn Đình Hoằng là cụ cố của cụ Nguyễn Huỳnh Anh người giàu có trong làng mới có thể dựng ba căn nhà Rường cho ba người con (Ảnh 2,3 nhà cụ Nguyễn Huỳnh Anh). Những ngôi nhà xưa ở Lộc Yên và cả huyện Tiên Phước trước năm 1940 hầu như đều làm nguồn vật liệu tre, gỗ, tranh với nguồn vật liệu tại chỗ (khai thác trong vườn đồi). Những năm sau khi có đường ô tô từ Tam Kỳ đến Tiên Phước thì mái nhà được thay tranh lợp ngói âm dương (4) kéo theo vách đất bao che nhà cũng được thay bằng tường đá (khai thác tại chỗ) chúng được liên kết nhau bằng vữa đất, tô phủ bên ngoài bằng hỗn hợp đường mía với vôi.

Làng Lộc Yên ngày trước cho đến hôm nay vẫn ở trong một thung lũng bao quanh là những đồi cây chen với đá, cách đây 50 năm còn tồn tại những ngôi nhà xinh xắn làm từ tre: Nhà Rội/ Rọi đến những ngôi Rường nhà bằng gỗ vườn, vách bằng đất liên kết với đá, có 2 tầng mái và tất cả đều lợp mái bằng tranh. Chính những ngôi nhà này đã phản ảnh tinh thần về kiến trúc sinh thái, kiến trúc thân thiện với thiên nhiên (người viết xin nhấn mạnh). Kiến trúc ấy dẫu là nhà ở dân gian nhỏ bé nhưng là bài học cho chúng ta hôm nay về sự hòa hợp của ngôi nhà ở với môi trường thiên nhiên. Kiến trúc 2 tầng mái này đã làm tăng thêm về quĩ kiến trúc cho huyệnTiên Phước, Quảng Nam – Đó là Nhà Lá Mái (5) (nhà có 2 tầng mái, mái trên lợp bằng tranh, mái dưới bằng đất, lâu nay người ta cho rằng loại nhà này chỉ có ở Bình Định). Qua nhiều lần điền dã, điều tra, chúng tôi khẳng định rằng, đây là loại nhà có kết cấu của nhà Rường nhưng trong điều kiện xa trung tâm sản xuất ngói nên hầu như những kiến trúc miếu, đình, nhà ở đều phải lợp tranh. Tranh thì dễ cháy nên người xưa đã nghĩ đến làm thêm mái đất bên dưới để cách ly lửa nếu hỏa hoạn xảy ra. Những kiến trúc đặc trưng của vùng trung du đều tọa lạc trong một không gian xanh, hay đúng hơn hòa hợp trong cây xanh của vườn – rừng (mít, bòn bon, tiêu, quế, chuối, tre, lồ ô) và chúng được bao quanh cùng giới hạn là khu vườn trên đồi bởi bờ ngăn bằng đá. Các lối dẫn vào cổng nhà đều xếp bằng đá, các bậc lên xuống thấp cao cũng được xếp từ đá tạo thành ngõ đá, bờ đá xinh xắn (ảnh 4, lối lên ngõ đá nhà cụ Nguyễn Huỳnh Anh).

Ngày nay, xu hướng “đô thị hóa nông thôn” đã làm thay đổi cảnh quan kiến trúc của nhiều làng quê Việt Nam trong đó có Quảng Nam. Làng Lộc Yên, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước cũng đã có dấu hiệu của vật liệu xây dựng hiện đại. Đầu tiên là những con đường chính dẫn vào làng đã bê tông hóa, các viên đá xếp chồng nhau cũng như đường dẫn vào nhà có đoạn đã bê tông, chí ít xi măng cũng đã tham gia làm những mảng thực vật bị hủy hoại, cảm giác thiên nhiên xanh đã bị mất đi. Phần nhà ở cổ truyền thường làm bằng tre, gỗ là những vật liệu thảo mộc dễ hủy hoại bởi khí hậu ẩm thấp, mối mọt. Không gian ở, mặt bằng sinh hoạt có thay đổi cho phù hợp cuộc sống hôm nay đã dẫn đến nhiều ngôi nhà xưa bị biến dạng do chủ nhà tự ý sửa chữa bằng vật liệu mới, hiện đại như bê tông, gạch men, kính. Trong năm 2000, chúng tôi đã đến khảo sát đo vẽ nhà anh Nguyễn Đình Mẫn, nhưng đến năm 2007 đã có dấu hiệu thay đổi ở ngôi nhà ngang (lợp lại mái, thay cột, xây lại tường, bỏ nhà bếp)và cả cái giếng nước bằng đá dẫn nước tự nhiên trên đồi về (ảnh 5, tác giả ở giếng nước lúc còn hiện trạng).

Còn nhà lá mái (phần mái tranh và phần đất) loại nhà Rường ở trong làng hầu như đã bị dỡ bỏ, thay vào đó lợp mái ngói sau 1940) (bản vẽ 3 phục dựng nhà lá mái của cụ Nguyễn Huỳnh Anh)

Nhà cụ Huỳnh Thúc Kháng ở thôn Thanh Bình kế bên cũng đã thay tranh lợp ngói năm 1941. May mắn, ngôi nhà của ông Trần Khiêm trong làng Lộc Yên (bản vẽ mặt cắt với mái đất đang tồn tại) vẫn còn giữ được phần mái dưới cùng thân nhà bằng đất nhưng chủ nhà cũng đã có dự định phá bỏ trong nay mai (may mắn đến nay mái đất này vẫn còn). Trong 7 kiến trúc là nhà ở có khung bằng gỗ đang hiện còn trong làng Lộc Yên thì hầu như nhà nào cũng có dấu hiệu mối mọt đe dọa các thành phần cấu kiện bằng gỗ, một số nhà mái bị dột có nhiều nguy cơ ảnh hưởng khung sườn gỗ bên trong.

Thay lời kết

Những giá trị không gian, cảnh quan môi trường sống, kiến trúc ở tại làng Lộc Yên có thể bị hủy hoại, mất đi hay biến dạng trong tương lai gần. Để tìm hiểu kỹ về giá trị của không gian một làng xưa vùng trung du cần có sự nghiên cứu của các nhà chuyên môn, góp phần to lớn vào việc nghiên cứu kiến trúc cổ truyền Việt ở miền trung Việt Nam nói chung và Quảng Nam nói riêng. Qua nghiên cứu, sẽ đưa ra những nhận định, đánh giá và từ đó có những kiến nghị giúp cho những nhà làm công tác bảo tồn, ngành Du lịch chọn được giải pháp hữu hiệu trong việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy không gian và các kiến trúc mang đậm nét văn hóa của một vùng, từ đó người dân có ý thức tích cực gìn giữ bảo vệ với các kiến nghị sau:

  • Đường đi vào làng nên kè, bó vỉa bằng đá tạo nét thân thuộc và đồng bộ với ngõ đã vốn có. Bố trí nhà chứa xe máy nơi thuận lợi đi lại cho người trong làng. Tránh tiếng ồn của máy nổ;
  • Gìn giữ các yếu tố thiên nhiên như đá, dòng chảy tự nhiên;
  • Hạn chế sử dụng vật liệu như xi măng để kết dính khi tạo vách, ngõ đá (có thể nhưng phải đấu bên mạch bên trong);
  • Trồng cây bản địa và cố gắng tạo các thảm địa y có màu, mọc trên vách đá;
  • Ẩm thực những món dân dã lấy, bắt từ đồng ruộng, đồi, ao nước;
  • Tạo các Homestay để giới thiệu cho khách về làng quê Việt – Quảng Nam.

Nguyễn Thượng Hỷ
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 07-2023)


Chú thích
(1)Tiền án hay Chu tước: Trong không gian minh đường có các núi, gò đống nổi lên (theo thuật ngữ địa lý xưa gọi là Sa…, Sơn… là các dạng thể nhô lên trong các mặt thanh long, bạch hổ, minh đường). Tùy theo vị trí gọi tên riêng để phân biệt. Ví dụ, gần với kiến trúc thì gọi là tiền án hay án sơn, xa hơn thì gọi là triền sơn hay chu tước (Phượng hoàng đỏ). Nhưng nhìn chung, chức năng của “tiền án” hay “chu tước” là che chắn, bảo vệ ở mặt trước kiến trúc, tránh tác động trực xung. (Trích Cổ học phương Đông trong Nghệ thuật Kiến trúc của Lương Trọng Nhân, trang 132).
(2) Đối với người Việt xưa thì: “Mảnh đất mà họ chọn để dựng nhà phải là một khu đất dạng đất bồi, có thể sinh cơ lập nghiệp lâu dài mà không bị sạt lở. Khu đất ấy lại phải có “Tả thanh long, hữu bạch hổ, tiền chu tước, hậu huyền vũ”, tức là một địa hình có sông hồ đăng đối với gò bãi, có đồng rộng thông thóang đằng trước để làm ruộng và có mặt nước đằng sau để kiếm cá”. (Theo Chu Quang Trứ, Văn hóa Việt Nam – Nhìn từ Mỹ thuật, tập 1, sđd trang 202-203)
(3) Cửa ngõ thường không làm đúng chính giữa nhà và sân, tránh để người ngoài nhìn thẳng vào trung tâm nhà… (theo Việt Nam Văn hóa sử cương của Đào Duy Anh).
(4) Mua từ Hội An lên, chuyên chở bằng đường sông đến bến Kỳ Phú, Tam Kỳ rồi chuyển lên xe đến Tiên Phước, cuối cùng là gánh bộ về làng nên giá thành theo lời kể của cụ Huỳnh Anh là rất cao, giá tại thời điểm thi công 1xu/viên.
(5) Theo Piere Gourou Nhà Lá Mái ở miền Trung gồm có các loại nhà: Có thể là nhà Rội/Rọi (cột chôn xuống đất), nhà thượng Rường hạ Rội (thường có cột ở giữa, bản vẽ A) hoặc nhà Rường phổ biến (cột kê trên đá tán/đá tảng), đặc biệt nhà có hai tầng mái, mái dưới hay trần đắp đất trên sàn bằng tre hoặc gỗ, tầng trên là khung đỡ bằng tre lợp tranh hoặc lá (bản vẽ A1và A2). Kiểu nhà này có nhiều tên gọi: nhà mái xông (vì phần trên mái trần nhà cũng đắp đắp đất như vách tường hai đầu nhà/đầu xông),nhà đắp đất và tên phổ biến ở Bình Định là Nhà Lá mái. Vài năm gần đây trong nhiều lần đi điền dã,tôi phát hiện hầu như các ngôi nhà xưa bằng gỗ ở Cù Lao Ré/đảo Lý Sơn đều là nhà lá mái người địa phương gọi là nhà bỏ đất. Ở Quảng Nam vùng miền tây của huyện Thăng Bình và huyện Quế Sơn đã từng xuất hiện loại kiến trúc này.
(6) Với kiến trúc từ vật liệu thiên nhiên gỗ, tre, đất, đá không qua biến chế phức tạp để tạo nên CO2 và khi thải đi không ô nhiếm môi trường… xem như là Kiến trúc sinh thái (đọc bài Nhà Lá mái Quảng Nam: Kiến trúc sinh thái cùng tác giả).

Tài liệu tham khảo:
1/ “Phác thảo Nghiên cứu về nhà Việt Nam từ Thanh Hóa đến Bình Định” – Pierre Gourou, bản dịch của Đào Hùng (Esquisse d’une étude l’habitation annamite, dans L’Annam Septentrional et central du Thanh Hoa au Binh Dinh. Les éditions d’art et d’histoire. Paris), Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Thừa Thiên Huế, số 4 (34), 2001;
2/ “Nhà lá mái ở đảo Lý Sơn” – Nguyễn Thượng Hỷ – Bài dự thi Tìm hiểu Kiến trúc Cổ truyền Việt Nam do Viện Nghiên cứu Kiến trúc và Qui hoạch Nông thôn tổ chức 2011;
3/ “Cổ học phương Đông trong Nghệ thuật Kiến trúc” – Lương Trọng Nhân, NXB Lao Động 7/2006;
4/ “Văn hóa Việt Nam – Nhìn từ Mỹ thuật”, Tập 1 – Chu Quang Trứ, NXB Mỹ Thuật 2019;
5/ “Việt Nam Văn hóa sử cương” – Đào Duy Anh, NXB Quan Hải Tùng Thư, Huế 1938;
6/ “Nhà Lá mái ở Quảng Nam – Kiến trúc sinh thái”, trang 23-40 cùng tác giả trong “Nhà ở cổ truyền dân gian người Việt ở Quảng Nam” – Trung tâm Bảo tồn Di sản di tích Quảng Nam, tháng 4 năm 2008;
7/ “Nguồn gốc và quá trình phát triển của Kiến trúc Nhà ở truyền thống Người Việt” – TS. Trần Quế Hà, ĐH Quốc gia Singapore, Hội Thảo Việt Nam – học lần thứ 2;
8/ “Kiến trúc sinh thái Việt Nam” – PGS.TS Hoàng Huy Thắng, Tạp chí Kiến trúc số 136, 08/2006;
9/ Đọc: What is an “Ecological House”? của Philip S. Wenz (tài liệu từ Internet)


(*) ĐƯỢC XẾP HẠNG DI TÍCH CẤP QUỐC GIA NĂM 2019
(**) Nhà cụ Nguyễn Huỳnh Anh do phường mộc Văn Hà (tên làng thuộc xã Tam Thành, huyện Phú Ninh tỉnh Quảng Nam) được ông Ngô Đình Diệm nhờ người anh Ngô Đình Khôi lúc đó là Tổng Đốc Quảng Nam hỏi mua giúp một lần. Sau này khi Ngô Đình Diệm làm tổng thống cũng hỏi mua lần thứ hai nhưng gia đình không bán.Nay người con là ông Nguyễn Huỳnh Hoan tiếp tục sở hữu.

The post Không gian văn hóa làng xưa Lộc Yên – Quảng Nam appeared first on Tạp chí Kiến trúc - Hội Kiến trúc sư Việt Nam.



from Tạp chí Kiến trúc – Hội Kiến trúc sư Việt Nam https://ift.tt/eT45Pr6
Blog phát triển bởi https://tuvankientrucnha.blogspot.com/
Tìm kiếm đơn vị chuyên xây dựng công trình nhà ở Hà Nội https://thoxay.vn//

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét