Thứ Ba, 18 tháng 1, 2022

Hệ thống tiêu chí nhận diện tính bản địa trong kiến trúc đương đại Việt Nam

Với phương châm “Bản địa hóa kiến trúc hiện đại song song với Hiện đại hóa kiến trúc bản địa” (UIA 1999), kiến trúc hiện đại phương Tây du nhập vào Việt Nam ít nhiều được bản địa hóa về hình thức, nhưng sự hiểu biết về văn hóa chưa thấu đáo nên biểu hiện dễ dãi và khiên cưỡng (thậm chí sai lệch). Còn kiến trúc bản địa của Việt Nam thì được hiện đại hóa chủ yếu về kết cấu và vật liệu, nhưng vẫn phỏng theo hình thức cũ của kiến trúc gỗ truyền thống, nên trở thành giả cổ, không đúng bản chất. Vì vậy, trong kiến trúc đương đại (KTĐĐ) Việt Nam đang hình thành những trào lưu ngược chiều và riêng rẽ. Việc nhận diện tính bản địa sẽ góp phần hợp tụ một dòng chảy lớn mang tính bản địa rõ nét và thuyết phục.

Cấu trúc của vấn đề biểu hiện tính bản địa trong kiến trúc

Với chuỗi liên hệ: Tính bản địa – Tinh thần bản địa – Tinh thần (của) địa phương – Bản sắc địa phương; và Bản sắc = Bản chất / bản thể (chỉ tính chất cố hữu, ở bên trong) + Sắc thái / sắc độ (chỉ mức độ biểu hiện ra bên ngoài) – thì cấu trúc của vấn đề tính bản địa trong kiến trúc cũng bao gồm Nội hàm (內函 = cái hàm chứa bên trong) và Ngoại diện (外面 / 外靣 = cái biểu hiện ra bên ngoài).

Ngoại diện khác với “ngoại diên” (外衍 – là phạm trù triết học, cùng cặp và đối lập với “nội hàm”).

Bảng 1. Cấu trúc vấn đề Biểu hiện tính bản địa trong kiến trúc

Với vấn đề đang xét, nội hàm là ý niệm về tính bản địa trong kiến trúc, ngoại diện là những yếu tố / thành phần kiến trúc trực tiếp biểu hiện tính bản địa trong công trình (còn ngoại diên là tập hợp toàn bộ các kiến trúc có tính bản địa). Biểu hiện tính bản địa có sự liên kết cái nhìn thấy (dấu hiệu) và cái cảm thấy (ý nghĩa), là quan hệ giữa cái bất biến (ổn định) và cái khả biến (thay đổi và phát triển). Về đại thể, vấn đề biểu hiện tính bản địa được cấu trúc hóa như sau:

Các cơ sở để nhận diện hiển hiện tính bản địa trong kiến trúc

1. Kiến trúc thích ứng và phản ánh các nhân tố bản địa nguồn

Tính bản địa là một tính chất chung, nhưng biểu hiện của nó trong kiến trúc thì thay đổi theo không gian và thời gian – tùy thuộc các yếu tố sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn cụ thể ở mỗi địa phương.

Môi trường sinh thái tự nhiên là nhân tố bản địa nguồn thiên tạo dẫn tới sự hình thành các nguyên mẫu bản địa (Prototype) trong kiến trúc. Các yếu tố địa hình, khí hậu & cảnh quan địa phương quyết định hình thái và cấu trúc của kiến trúc. Trong đó, địa hình luôn là yếu tố khách quan tiền định (của trời đất), liên quan tới những tầm vóc to lớn (núi, sông), điều tiết khí hậu vùng thành các tiểu khí hậu địa phương và chi phối cảnh quan. Kiến trúc thích ứng với môi cảnh thì con người cảm thấy thuận tiện và gắn bó với địa điểm. Trong quá khứ, môi cảnh tự nhiên vẫn được xem là bất biến/ ổn định – nhưng hiện nay biến đổi khí hậu đang diễn ra cực đoan trên phạm vi toàn cầu, đòi hỏi KTĐĐ phải tìm cách thích ứng bằng những giải pháp mới, theo những nguyên tắc mới.

Hình 2. Các đặc trưng và khía cạnh tạo lập BẢN SẮC địa phương

Môi trường sinh thái nhân văn được tích lũy theo thời gian, trở thành nhân tố bản địa nhân tạo có vai trò ngày càng quan trọng quyết định sự lựa chọn cụ thể của con người (về vật liệu, kỹ thuật và kiểu cách) để biểu hiện tính bản địa trong kiến trúc, tạo nên các biến thể (Variations), hoàn thiện các kiểu mẫu cụ thể (Patterns) trên cơ sở nguyên mẫu bản địa. Kiến trúc có mối liên hệ chặt chẽ với môi trường VH-XH; là thành phần vật thể chủ yếu của văn hóa tộc người, phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng địa phương. Hình thức kiến trúc chứa đựng & biểu hiện giá trị văn hóa bản địa thông qua các ký hiệu và biểu tượng của ngôn ngữ kiến trúc. Các ký hiệu thị giác được kết hợp với thông tin từ ký ức và sự hiểu biết để hình thành ý niệm nhận thức. Môi trường VH-XH địa phương quyết định kiểu tư duy & nhận thức, kiểu lựa chọn ký hiệu và giải mã đặc trưng của cộng đồng ở đó.

2. Các lý luận về quan hệ Con người – Kiến trúc – Địa điểm

“Nơi chốn” (khái niệm của địa lý nhân văn) trở thành tiền đề cơ bản cho sự liên kết hữu cơ giữa kiến trúc, địa điểm và con người. Thông qua kiến trúc, con người cảm thấy thân thuộc và gắn bó với nơi chốn, cảm nhận được tinh thần / bản sắc của địa điểm (hình 1). Từ địa điểm mở rộng ra địa phương với sự song trùng các yếu tố tự nhiên và văn hóa, sự phối hợp các đặc trưng vật chất – hình thể và VH-XH tạo nên ngữ cảnh và ý nghĩa – là đặc trưng tinh thần của bản sắc địa phương (hình 2). Sự liên kết hữu cơ giữa các cấu trúc vật chất (tự nhiên và nhân tạo) ở địa phương với các hoạt động cư trú lâu đời của cộng đồng tại đó gợi lên những cảm xúc và nhận thức tương ứng về kiến trúc như là hiện tượng kiến tạo phản ánh môi cảnh bản địa, qua đó biểu hiện tinh thần bản địa / bản sắc địa phương.

Kiến trúc phản ánh văn hóa ứng xử của con người với các yếu tố của địa điểm xây dựng, biểu hiện triết lý Á Đông về mối liên thông bền chặt, không thể chia cắt giữa con người và tự nhiên. Con người và xã hội, văn hóa và kiến trúc xuất hiện trong quá trình phát triển của địa phương và cùng với tự nhiên ở đó trở thành những thành phần của môi cảnh bản địa, thống nhất với nhau trong một hệ thống, một chỉnh thể. Phong thủy là những nguyên tắc tạo dựng môi trường sống lý tưởng phù hợp với con người và địa điểm, dựa trên các triết lý Âm – Dương (về bản thể), Tam tài (về cấu trúc) và Ngũ hành (về quy luật vận động của thế giới). Kiến trúc hợp cách / phù hợp với đặc trưng của môi cảnh bản địa sẽ tạo nên thế ổn định lâu dài trong tương quan với các yếu tố của môi trường xung quanh; góp phần cải thiện – thậm chí là khắc phục những yếu tố bất lợi – để con người có thể cư trú lâu dài tại đó.

3. Các yếu tố ảnh hưởng đến biểu hiện tính bản địa trong KTĐĐ

Yếu tố kỹ thuật và vật liệu

Kiến trúc hiện đại nhưng không tương thích với điều kiện địa phương làm cho phương thức xây dựng bản địa và bản sắc địa phương bị mai một. Sử dụng công nghệ xây đựng thích hợp với các khía cạnh nhân văn, sinh thái, kinh tế và kỹ thuật của địa phương sẽ góp phần phát huy giá trị văn hóa, biểu hiện bản sắc địa phương trong KTĐĐ. Đó là các công nghệ gốc làm cho tính bản địa được cải tiến/ nâng cấp/ hiện đại hóa, khai thác các kinh nghiệm thực tiễn, sử dụng nguồn lực tại chỗ và được cộng đồng chấp nhận.
Chất cảm và màu sắc của vật liệu ảnh hưởng đến hiệu quả biểu hiện tính bản địa. Bản chất vật liệu là trung tính, nó biểu hiện tính bản địa do cách con người sử dụng nó. Vì vậy có thể sử dụng các vật liệu hiện đại để chuyển hóa tinh thần bản địa / bản sắc địa phương vào kiến trúc.

Các yếu tố thời đại

Nhiều yếu tố bản địa không còn phù hợp với nhu cầu mới của con người và xã hội, dẫn đến sự đổi mới tinh thần bản địa theo xu thế hiện đại hóa, phù hợp với quan niệm thẩm mỹ mới (không gò theo khuôn mẫu). Tinh thần của thời đại hướng tới đa dạng văn hóa, bình đẳng giá trị (đề cao vai trò cá nhân), mâu thuẫn với đặc trưng văn hóa truyền thống (đề cao cộng đồng) – Nếu thiếu định hướng/ thiếu kiếm soát sẽ tác động tiêu cực đến nhận thức và biểu hiện tinh thần bản địa.
Kiến trúc bị ràng buộc về vật chất – kỹ thuật nên hiện đại về vật chất là tương đối, giới hạn trong không gian – thời gian của địa phương. Hiện đại về tinh thần cộng hưởng được với bề dày VH, tinh thần bản địa kết hợp được với yếu tố đương đại – thì biểu hiện sẽ bền vững không bị lạc hậu.

4. Các vần đề cơ bản của việc biểu hiện tính bản địa trong kiến trúc

4.1. Các phương diện phản ánh tính bản địa

Từ góc độ kiến tạo, tính bản địa như một thuộc tính được quy định bởi các yếu tố vật liệu, cấu trúc và hình thức; biểu hiện quan hệ tương thích giữa kiến trúc với các môi trường sinh thái tự nhiên, VH-XH và vật chất – kiến trúc xung quanh – thông qua các dấu hiệu của sự Thích ứng (về cấu trúc), sự Phù hợp (về nội dung), sự Hoà nhập (về hình thức) (hình 3).

Từ góc độ bối cảnh luận, tính bản địa trong kiến trúc tiếp nối bản sắc địa phương thông qua quan hệ bền vững với các môi trường bao chứa kiến trúc: 1) Thích ứng với khí hậu tự nhiên; 2) Tíếp nối truyền thống văn hóa; 3) Phù hợp với con người và cộng đồng; 4) Hòa nhập với cảnh quan khu vực; 5) Sử dụng kỹ thuật và vật liệu thích hợp.

Từ góc độ nhân văn, tính bản địa trong kiến trúc phản ánh thế ứng xử của con người với không gian- thời gian của địa phương: Thích ứng với Thiên, hòa hợp với dịa, phù hợp với nhân; tiếp nối quá khứ, đáp ứng hiện tại, hướng tới tương lai.

Nhìn nhận từ các tính chất hợp thành tính bản địa thì:

  • Tính thích ứng tạo quan hệ bền vững với môi trường sinh thái tự nhiên, giải quyết các vấn đề về sinh thái và môi trường (trên cơ sở phát huy các kinh nghiệm xây dựng truyền thống);
  • Tính nhân văn trong quan hệ với môi trường sinh thái nhân văn, tiếp nối văn hóa truyền thống; đáp ứng nhu cầu của cộng đồng; bền vững về VH-XH, phù hợp về kinh tế và kỹ thuật;
  • Tính hòa nhập trong quan hệ với cảnh quan, chi phối các yếu tố hình thức kiến trúc để tạo sự hòa đồng và gắn kết hữu cơ với môi cảnh bản địa;
  • Tính tích hợp để hoà nhập về ấn tượng, lồng ghép tinh thần bản địa, tạo yếu tố biểu trưng để liên tưởng (- Hiện đại hoá biểu hiện bằng các kỹ thuật và vật liệu thích hợp);
  • Tính liên hệ để hoà nhập về hình ảnh với cảnh quan kiến trúc đô thị. kiến trúc được cảm nhận bằng thị giác với nhiều cảm tính – nên sự liên hệ với cái đang hiện diện, cái được lưu giữ trong tiềm thức là những khía cạnh phản ánh tính bản địa trong kiến trúc.

4.2. Phương thức biểu hiện tính bản địa trong KTĐĐ Việt Nam (hình 4)

Có 03 phương thức biểu hiện tính bản địa nối tiếp nhau trong lịch sử:

  1. Phương thức tự thân: Nội dung bản địa + Vật chất bản địa – Hình thức bản địa gốc (các nguyên mẫu / kiểu mẫu bản địa – trong kiến trúc cổ đại);
  2. Phương thức cải biên: Hình thức bản địa + Vật chất bản địa mới – Hình thức bản địa hóa (các biến thể / kiểu cách bản địa – trong kiến trúc truyền thống);
  3. Phương thức tổng hợp: Tinh thần bản địa + Vật chất đương đại – Hình thức bản địa mới.

Phương thức tổng hợp có nhiều cơ hội để ứng dụng trong kiến trúc đương đại: Sử dụng các công cụ mới để biểu đạt tinh thần bản địa, tạo nên các hình thức bản địa mới. Các hình thức bản địa gốc và bản địa hóa đều biểu hiện tinh thần bản địa nên cũng có thể được lồng ghép với các yếu tố của thời đại / thực hiện bằng kỹ thuật và vật liệu hiện đại để đổi mới biểu hiện của tính bản địa. Như vậy, sự tích hợp yếu tố đương đại với tinh thần bản địa / hình thức bản địa là một khía cạnh biểu hiện tính bản địa trong kiến trúc.

Hình 4. Liên hệ giữa các phương thức biểu hiện tính BĐ trong kiến trúc

5. Cấu trúc của môi cảnh bản địa

Môi cảnh bản địa là tổng thể phức tạp của các nhân tố bản địa nguồn thuộc các hệ sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn tại địa phương. Có thể xem đó là sự phối hợp của Môi trường bản địa (là phương diện nội dung) và Cảnh quan bản địa (là phương diện hình thức). Môi cảnh bản địa như vậy có sự phát triển theo thời gian, với nền tảng là cấu trúc sơ cấp – ban đầu là môi trường sinh thái tự nhiên sẵn có, rồi hình thành và củng cố dần các môi trường VH-XH và vật chất – kiến trúc); sau đó phát triển thêm cấu trúc thứ cấp.

Trong cấu trúc thứ cấp, yếu tố đương đại (thường là nhu cầu mới / kỹ thuật và vật liệu mới) là động lực để phát triển.

Hình 5. Sự hình thành và phát triển của cấu trúc thứ cấp trong môi cảnh bản địa
Hình 6. Cấu trúc tổng hợp của môi cảnh bản địa
Hình 7. Cấu trúc sơ cấp và cấu trúc thứ cấp của Môi cảnh bản địa + Hình 8. Các thành phần môi cảnh bản địa và quan hệ với kiến trúc
Hình 9. Cấu trúc biểu hiện của tính bản địa trong kiến trúc

6. Bộ tiêu chí nhận diện biểu hiện của tính bản địa trong KTĐĐ Việt Nam

Các phương diện biểu hiện tính bản địa được xác lập thông qua mối quan hệ giữa kiến trúc với các khía cạnh tương ứng của môi cảnh bản địa, trong đó mỗi khía cạnh gồm 2 thành phần cơ bản (riêng tinh thần bản địa có 1), và mỗi thành phần lại cấu thành từ 3-4 yếu tố. Từ mối quan hệ giữa kiến trúc và 7 thành phần môi cảnh sẽ xác định 7 nhóm tiêu chí khung để nhận diện tính bản địa (bảng 2).

Bảng 2. Các nhóm tiêu chí nhận diện tính bản địa trong KTĐĐ Việt Nam
Hình 10. Sơ đồ cấu trúc hệ thống Bộ tiêu chí nhận diện biểu hiện tính bản địa
Bảng 3. Bộ tiêu chí nhận diện biểu hiện tính bản địa trong KTĐĐ

Kết luận

Bộ tiêu chí nhận diện biểu hiện tính bản địa trong KTĐĐ Việt Nam được nghiên cứu xây dựng một cách logic, trên cơ sở cách tiếp cận hệ thống và tư duy cấu trúc. Do khuôn khổ có hạn, bài báo tập trung vào cấu trúc biểu hiện của tính bản địa để làm rõ cơ chế liên hệ và chuyển hóa từ nội hàm (ý niệm / cấu trúc chiều sâu) đến ngoại diện (biểu hiện/ cấu trúc bề mặt). Khi ứng dụng trong thực tế cần kết hợp phân tích các thông tin thị giác khả tín về kiến trúc (hình ảnh thực tế, bản vẽ, hồ sơ thiết kế,..) và các dữ liệu về môi cảnh bản địa cụ thể của địa phương nơi xây dựng để nhận biết các biểu hiện chi tiết của tính bản địa trong công trình.

ThS.KTS Trần Mạnh Cường
Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 11-2021)


Danh mục tài liệu tham khảo:

  1. Hoàng Đạo Kính (2001) – “Tạo lập bản sắc cho kiến trúc đương đại”, Hội thảo “Toàn cầu hoá và bản sắc trong kiến trúc”, Hà Nội.
  2. Trần Hùng (1983) – Yếu tố khí hậu trong sự hình thành tính chất dân tộc của kiến trúc Việt Nam, Dân tộc học 2.
  3. Khuất Tân Hưng (2007) – Mối quan hệ giữa văn hóa và kiến trúc nhà ở dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, Luận án tiến sĩ, Đại học Kiến trúc Hà Nội.
  4. Nguyễn Trí Thành (2013) – “Đổi mới nhận thức về vấn đề bản sắc dân tộc trong kiến trúc”, tạp chí Kiến trúc (Hội KIẾN TRÚC Việt Nam), số 9/2013.
  5. Trần Ngọc Thêm (2006) – “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”.
  6. Nguyễn Minh Tường (2001) – “Về nghĩa của từ Bản sắc”, tạp chí Tia sáng.

 

The post Hệ thống tiêu chí nhận diện tính bản địa trong kiến trúc đương đại Việt Nam appeared first on Tạp chí Kiến trúc - Hội Kiến trúc sư Việt Nam.



from Tạp chí Kiến trúc – Hội Kiến trúc sư Việt Nam https://ift.tt/3qziECq
Blog phát triển bởi https://tuvankientrucnha.blogspot.com/
Tìm kiếm đơn vị chuyên xây dựng công trình nhà ở Hà Nội https://thoxay.vn//

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét